Khách sạn châu Á khó khăn tài chính vì Covid-19. Công suất phòng thấp kỷ lục, doanh thu lao dốc, nhiều chủ khách sạn phải tìm đủ cách xoay xở dòng tiền để vượt qua mùa dịch. Ông Adam dự báo, tình trạng căng thẳng tài chính sẽ xuất hiện khi các kênh huy động vốn Nếu bạn sửa chính cái vòi, nước sẽ không bị rỉ nữa. Tương tự, thay vì lo lắng trước áp lực, hãy tập trung giải quyết vấn đề gây ra khó khăn tài chính. 2. Lập ngân sách: Một trong những cách tốt nhất để giải quyết khó khăn tài chính là lập kế hoạch ngân sách. Nó có thể theo tuần, tháng hoặc năm, giúp bạn điều chỉnh chi tiêu. Chính trị Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một nước cộng hòa liên bang, trong đó Tổng thống, Quốc hội, và Toà án cùng nắm giữ và chia sẻ quyền lực của chính quyền liên bang theo Hiến pháp. Trong khi đó, chính quyền liên bang lại chia sẻ quyền lực với chính quyền của từng tiểu bang Hệ quả của đại dịch Covid-19 gây khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp 1.1. Chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp tăng 6 khó khăn về tài chính. Cuộc khảo sát doanh nghiệp từ 12-22/8 về tình hình sức khỏe tài chính của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát từ tháng 5/2021 do Ban nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) phối hợp Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Kinh tế thế giới đang đối mặt với khó khăn lạm phát chưa từng có trong nhiều thập kỷ qua Sau một năm ảnh hưởng bởi sự tàn phá nặng nề của đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi. Động lực cơ bản thúc đẩy quá trình phục hồi nhanh chóng này là chính sách hỗ trợ khổng lồ, cả về tài chính và tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ này cũng là yếu tố gây lạm phát cao. Ban đầu, lạm phát chỉ tăng đối với một số ít mặt hàng hóa, nhưng đầu năm 2022, đà tăng giá cả dịch vụ có dấu hiệu kéo dài và đã vượt mức giá trước đại dịch tại nhiều khu vực trên thế giới. Trên toàn cầu, các chuỗi cung ứng chịu nhiều áp lực. Khó khăn về nguồn cung đã lan rộng sang nhiều ngành nghề và quốc gia, dẫn đến tình trạng chậm trễ, nhiều doanh nghiệp bán lẻ bị thiếu hàng hóa. Trong lĩnh vực năng lượng và những thị trường hàng hóa khác, nguồn cung cũng bị thắt chặt, đẩy giá cả các mặt hàng chủ chốt tăng cao. Trong khi các nước đang vật lộn với lạm phát và khó khăn kinh tế sau đại dịch, xung đột Nga - Ukraine đã đẩy thế giới vào tình cảnh khó khăn hơn. Theo báo cáo do ​​Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD công bố ngày 22/11/2022, GDP toàn cầu được dự báo chỉ tăng 3,1% trong năm nay và 2,2% vào năm 2023, phản ánh hệ quả trực tiếp của cuộc chiến giữa Nga và Ukraine - châm ngòi cho khủng hoảng năng lượng và qua đó đẩy lạm phát tăng cao trên toàn cầu. Lạm phát tại các nước phát triển AEs đã tăng chậm dần nhưng vẫn dao động trên mức 9% trong năm 2022, trước khi giảm về ngưỡng 6,6% trong năm 2023 - cao hơn một chút so với dự báo do Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF đưa ra. Kinh tế Mỹ dự kiến ​​chỉ tăng 1,8% trong năm 2022 và 0,5% vào năm 2023; GDP tại khu vực đồng tiền chung châu Âu euro sẽ giảm mạnh xuống mức tăng trưởng 3,3% vào năm 2022 và 0,5% vào năm 2023. Tuy nhiên, tác động từ cuộc chiến tại Ukraine vẫn không thể so sánh được với xu hướng sụt giảm kinh tế tại Trung Quốc do làn sóng lây nhiễm Covid-19 và các biện pháp chống dịch đang tác động mạnh đến tình hình kinh tế Trung Quốc, tiếp tục đe dọa kinh tế toàn cầu. Điều kiện tài chính khắt khe khi các ngân hàng trung ương NHTW quyết liệt đối phó với lạm phát Để kiềm chế đà tăng lạm phát, các NHTW tại AEs đang đẩy nhanh tiến độ bình thường hóa chính sách tiền tệ. Các NHTW lớn đặt mục tiêu lạm phát 2% và đã tăng lãi suất liên tục trong năm 2022 nhằm hạn chế đà tăng của giá cả. Tuy nhiên, chiến dịch thắt chặt chính sách tiền tệ này cũng chất thêm gánh nặng nợ nần đối với các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ, chất thêm rủi ro kinh tế toàn cầu. Trong số này, các quốc gia thu nhập thấp sẽ dễ bị tổn thương nhất do giá thực phẩm và năng lượng tăng cao, trong khi các điều kiện tài chính thắt chặt có thể làm gia tăng rủi ro tài chính và gánh nặng nợ nần, dẫn đến những lo ngại về một cuộc suy thoái toàn cầu vào năm 2023. Kinh tế thế giới đang đối mặt với khó khăn lạm phát triền miên chưa từng có trong nhiều thập kỷ qua, trong bối cảnh bất ổn kinh tế và căng thẳng địa chính trị tăng cao, rối loạn trên thị trường hàng hóa, năng lượng bắt nguồn từ đại dịch Covid-19 và chiến tranh kéo dài tại Ukraine. Từ đầu năm 2021, các nước mới nổi cũng bắt đầu tăng lãi suất và tiếp tục thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát và áp lực tỷ giá. Trên toàn cầu, điều kiện tài chính thắt chặt đáng kể, một phần phản ánh tác động của các động thái bình thường hóa chính sách tài chính - tiền tệ với hệ quả là làn sóng đào thoát nguồn vốn khỏi các nước mới nổi và tiên phong, nhất là tại những quốc gia có nền tảng kinh tế vĩ mô yếu ớt. Trên toàn cầu, rủi ro đã trở thành hiện thực, bao gồm áp lực lạm phát tăng cao hơn kỳ vọng, kinh tế Trung Quốc tăng chậm hơn so với dự báo do Covid-19 tái bùng phát mạnh và dư chấn trên thị trường bất động sản, tác động lan tỏa từ cuộc chiến tại Ukraine. Các tổ chức kinh tế và tài chính quốc tế liên tục dự báo giảm triển vọng GDP. Điều kiện tài chính tiếp tục thắt chặt, một phần do hệ quả của các biện pháp thắt chặt tiền tệ và một phần bắt nguồn từ những bất ổn về triển vọng GDP. Tại AEs, lãi suất tăng cao, trong khi điều kiện tài chính tại một số nước mới nổi có vẻ khó khăn hơn, do đồng bản tệ mất giá và phần lớn nợ nước ngoài dưới dạng USD làm tăng chi phí vay vốn. Mặt bằng lãi suất và giá cả các loại tài sản rủi ro chao đảo quá mức, phản ánh diễn biến khó lường về lạm phát và triển vọng tăng trưởng cũng như khó khăn trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Cho đến tháng 6/2022, làn sóng bán tháo tài sản rủi ro xuất hiện ồ ạt, do những lo ngại về khả năng các NHTW sẽ đẩy nhanh tiến độ tăng lãi suất để chống lạm phát và ngăn ngừa xu hướng neo kỳ vọng lạm phát. Lãi suất tăng đã cản trở khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, không một công ty nào trong số 15 công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ tạo ra lợi nhuận dương vào năm 2021. Trong đó, Microsoft đã giảm khoảng 700 tỷ USD vốn hóa thị trường; Meta đã giảm hơn 70% vốn hóa thị trường, tương đương 600 tỷ USD. Trong một năm qua, các nhà đầu tư trên sàn công nghệ Nasdaq đã mất tổng cộng khoảng 7,4 nghìn tỷ USD. Trên các thị trường tín dụng, tình hình trở nên xấu đi và lợi suất trái phiếu doanh nghiệp chi phí vay vốn tại AEs tăng lên gần đỉnh cao trong hai năm qua. Đáng chú ý, khu vực doanh nghiệp tại các nước mới nổi dễ bị tổn thương nhất khi bảng cân đối tài sản đòn bẩy vốn đã tăng cao từ khi xảy ra đại dịch Covid-19 có thể phóng đại mức độ thiệt hại trong thời kỳ giảm tốc kinh tế. Về tổng thể, kinh doanh tài sản rủi ro ghi nhận một năm 2022 đầy khó khăn. Trong đó, tài sản của các thị trường mới nổi chịu tổn thất rất lớn, phần nào phản ánh xu hướng tăng giá USD so với hầu hết các đồng tiền khác trên thế giới, mặc dù có sự khác biệt đáng kể. Trong những tháng cuối năm 2022, xu hướng chao đảo lan tỏa đến hầu hết các loại tài sản, phản ánh xu hướng chính sách tiền tệ khó định đoán và triển vọng kinh tế trầm lắng. Tại châu Âu, thị trường tài chính ngày càng căng thẳng, các tài sản có giá bị bán thanh lý do nỗi lo suy thoái trong bối cảnh thiếu hụt khí tự nhiên và rủi ro phân đoạn hình thành trở lại tại khu vực đồng Euro. Tuy nhiên, chênh lệch lợi suất trái phiếu của các chính phủ so với trái phiếu của chính phủ Đức đã thu hẹp sau khi NHTW châu Âu ECB thông báo một công cụ mới gọi là công cụ bảo vệ truyền tải để chống tình trạng phân đoạn tại khu vực đồng Euro. Tại Vương quốc Anh, lo lắng của các nhà đầu tư về triển vọng tài khóa quy mô lớn trong bối cảnh giá năng lượng tăng cao đã đè nặng tâm lý thị trường. Bảng Anh lao dốc mạnh, giá trái phiếu quốc gia giảm sâu. Để ngăn ngừa tình trạng rối loạn thị trường, ngày 28/9/2022, NHTW Anh BoE đã thông báo chương trình tạm thời có mục tiêu về mua trái phiếu chính phủ kỳ hạn dài và tiếp tục tăng lãi suất để đưa lạm phát về mục tiêu 2% trong trung hạn. Các nhà đầu tư kỳ vọng, BoE sẽ tăng lãi suất thêm 240 điểm cơ bản 2,4% đến cuối năm 2022 và lên gần 6% trong năm 2023. Dư địa chính sách tại các thị trường mới nổi tiếp tục thu hẹp Lãi suất tăng cao tại AEs và rủi ro bao phủ toàn cầu đã tiếp thêm áp lực về khả năng tăng chi phí vay vốn tại các nước mới nổi, nhất là những nước dễ bị tổn thương nhất. Cũng như AEs, các nước mới nổi và cận biên cũng tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực. Trong đó, NHTW các nước Mỹ Latinh được cho là rất chủ động, tăng lãi suất sớm hơn và với quy mô lớn hơn nhằm đối phó với áp lực lạm phát. NHTW trung Âu và nam Âu tiến hành thắt chặt tiền tệ muộn hơn và với quy mô nhỏ hơn, chậm nhất là các NHTW châu Á gần đây mới bắt đầu thắt chặt tiền tệ. Theo nhận định của thị trường, hầu hết các nước sẽ chấm dứt chu kỳ tăng lãi suất vào cuối năm 2022 hoặc đầu năm 2023 không tính châu Á, thậm chí một số nước mới nổi sẽ giảm mạnh lãi suất trong năm 2023. Tại nhiều nước mới nổi và cận biên, điều kiện trên thị trường trái phiếu bản tệ xấu đi rõ rệt, phản ánh những lo ngại về triển vọng kinh tế vĩ mô và độ tin cậy của chính sách, cũng như rối loạn về vị thế tài khóa bắt nguồn từ đại dịch Covid-19. Trên toàn cầu, lợi suất trái phiếu bản địa tăng cao và đã đạt đỉnh cao lịch sử tại một số nước mới nổi. Căng thẳng trên thị trường trái phiếu bản địa được cho là sẽ kéo dài, nhất là khi lãi suất tại Mỹ tăng cao đã tăng áp lực lên NHTW các nước mới nổi. Khả năng nới lỏng tiền tệ rất khó xảy ra, nếu NHTW tại AEs tăng lãi suất cao hơn kỳ vọng hoặc duy trì lãi suất cao trong thời gian dài hơn. Điều kiện tài chính khắt khe bóp nghẹt nhiều nước mới nổi Các nước mới nổi đối mặt với hàng loạt rủi ro do chi phí vay vốn nước ngoài tăng cao, lạm phát cao kéo dài, thị trường hàng hóa chao đảo, triển vọng kinh tế không rõ ràng và cuộc chiến tại Ukraine, áp lực bắt nguồn từ các động thái thắt chặt tiền tệ tại AEs. Cho tới nay, hầu hết các nước mới nổi hàng đầu vẫn khá bền vững trước những biến động từ bên ngoài và các cú sốc về cân bằng thanh toán. Tuy nhiên, nhiều nước tiên phong đang đối mặt với nguy cơ thiệt hại tiềm tàng về khả năng tiếp cận thị trường và rủi ro vỡ nợ chính phủ tăng cao. Ngoài ra, rủi ro tiếp tục gia tăng do AEs sẽ đối phó với những lo ngại về những tổn thương các chuỗi cung ứng bằng cách tăng cường can thiệp chính sách. Rối loạn trong việc tái cơ cấu các chuỗi cung ứng toàn cầu, bao gồm tăng thêm các rào cản thương mại và chính sách thương mại khó định đoán, có thể làm thui chột động lực tăng trưởng tại các nước mới nổi, làm bất ổn kinh tế vĩ mô và các dòng vốn, giảm khả năng của các nước phát triển trong việc tiếp cận thị trường tài chính quốc tế. Liên quan đến các dòng quỹ đầu tư, cho tới cuối tháng 9/2022, các nhà đầu tư đã rút khoảng 60 tỷ USD khỏi các nước mới nổi, chiếm gần 10% tài sản đang quản lý, mặc dù vẫn thấp hơn lượng vốn diễn ra vào thời kỳ khó khăn năm 2013. Trong năm 2022, lượng trái phiếu ngoại tệ phát hành giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2015. Từ đầu năm cho đến tháng 9/2022, lượng trái phiếu nợ do các chính phủ mới phát hành giảm 54% so với cùng kỳ năm trước xuống 68 tỷ USD, thậm chí với lợi suất rất cao. Thời gian đáo hạn cũng rút ngắn đáng kể, chỉ 18% lượng trái phiếu mới phát hành có kỳ hạn trên 15 năm - mức thấp nhất kể từ năm 2013. Trong thời kỳ này, trái phiếu nợ do các doanh nghiệp phi tài chính phát hành giảm 75% so với cùng kỳ năm 2021, xuống dưới 60 tỷ USD, điều kiện phát hành ngày càng khó khăn. Những năm gần đây, gánh nặng nợ công tăng rõ rệt tại hầu hết các nước mới nổi và cận biên, dẫn đến tình trạng xói mòn các nguồn tài khóa dự phòng cần thiết để giảm thiểu các cú sốc mới và gia tăng rủi ro tái cấp vốn. Tại các nước mới nổi, nợ công so GDP tăng trung bình từ 36% vào năm 2012 lên trên 60% vào năm 2022, mặc dù có sự khác biệt giữa các loại hình quốc gia. Do phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn vay nước ngoài, các nước tiên phong dễ bị tác động trực tiếp từ các động thái thắt chặt điều kiện tài chính tại AEs. Trái lại, nhiều nước mới nổi và phát triển hơn có đủ năng lực để xoay chuyển theo hướng tăng cường vay vốn nội tệ, rõ rệt nhất là trong những năm gần đây. Việc mở rộng thị trường trái phiếu trong nước có thể góp phần giảm thiểu rủi ro tiền tệ, thường là nguồn gốc dẫn đến khó khăn nợ nần và khủng hoảng tại các nước mới nổi; đồng thời, nâng cao năng lực tài khóa và hỗ trợ cho việc truyền tải chính sách tiền tệ hiệu quả. Về cơ bản, dự trữ ngoại tệ bổ sung tại phần lớn các nước mới nổi vẫn dồi dào, đã tăng đáng kể từ mức thấp trong những thời kỳ khó khăn trước đây. Tuy nhiên, tổn thương vẫn đeo bám triền miên, với khoảng 25% số quốc gia có nguồn dự trữ dưới mức cần thiết theo khuyến nghị. Trong khi đa phần các nước tiên phong chỉ có dự trữ đệm yếu ớt, áp lực dự trữ bắt đầu hình thành trong thời gian gần đây tại một số nước mới nổi hàng đầu thế giới. Trong bối cảnh như vậy, điều kiện vay vốn nước ngoài trở nên khó khăn đối với việc phát hành trái phiếu lợi suất thấp và khó khăn nợ nần có thể mở rộng sang nhiều nước, một khi kinh tế giảm sâu. Theo phân tích của IMF, nếu điều kiện tài chính thắt chặt đột ngột từ mức hiện hành, số quốc gia vỡ nợ hoàn toàn có thể tăng từ con số 20 quốc gia hiện nay lên 31 quốc gia. Ngoài ra, gánh nặng nợ nần có thể vượt 700 điểm cơ bản 7% tại hơn 40 quốc gia. Do hầu hết các nước tiên phong chỉ bắt đầu phát hành trái phiếu dưới dạng ngoại tệ từ năm 2010, nên họ có ít kinh nghiệm trong việc điều chỉnh kéo dài kỳ hạn nợ trong điều kiện thị trường đối ngược. Tuy nhiên, rủi ro hệ thống vẫn hạn chế và trong trường hợp khó khăn thì cũng chỉ chiếm 20% thị trường trái phiếu tại các nước mới nổi, tương đương 5% GDP toàn cầu. Gánh nặng nợ công có thể tăng, nhưng hơn 60% chỉ số nợ công tăng không quá 600 điểm cơ bản. Quan trọng là, phần lớn lượng trái phiếu bản địa phát hành tại các nước mới nổi hàng đầu đều được hấp thụ bởi các nhà đầu tư trong nước, khi nợ ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng tăng cao. Tiếp tục xu hướng hình thành từ giữa thập kỷ trước, tỷ trọng nợ bản địa đối với người không cư trú tại một số nước mới nổi hàng đầu giảm ít nhất 10% kể từ tháng 01/2020. Tại các nước tiên phong, thách thức chủ yếu bắt nguồn từ tác động phối hợp của điều kiện tài chính khắt khe, rối loạn nền tảng kinh tế, giá cả hàng hóa chao đảo mạnh. Tỷ trọng nợ so GDP tăng trung bình gần hai lần kể từ năm 2010, mặc dù được kỳ vọng sẽ giảm phần nào trong năm 2022. Về nợ chính phủ, chi phí lãi suất tiếp tục tăng, cản trở nhu cầu mở rộng đầu tư công. Mặc dù giảm nhẹ từ giữa năm 2022, nhưng giá cả hàng hóa vẫn cao hơn trước đại dịch. Diễn biến này có thể gây bất lợi cho các nước nhập khẩu, nhưng nhiều nước xuất khẩu hàng hóa hưởng lợi nhờ giá cả tăng cao. Trái lại, giá thực phẩm tăng cao trên toàn cầu làm trầm trọng thêm mức độ tổn thương tại các nước tiên phong do phải nỗ lực cân bằng chính sách; lạm phát cao đòi hỏi phải thắt chặt chính sách tiền tệ, nhưng việc hỗ trợ những đối tượng dễ bị tổn thương nhất đòi hỏi phải bổ sung dư địa tài khóa hoặc tái ưu tiên mở rộng chi tiêu. Thanh khoản thị trường nghèo nàn Sau hơn một thập kỷ có thanh khoản dồi dào, thế giới đang chuyển sang thời kỳ thắt chặt chu kỳ tiền tệ một cách triệt để nhằm chống lạm phát, dẫn đến xu hướng chao đảo thị trường, nhất là về dư địa lãi suất, làm tăng rối loạn điều kiện thanh khoản thị trường. Trong bối cảnh như vậy, thước đo thanh khoản thị trường xấu đi tại tất cả các loại hình tài sản, khi các nhà đầu tư vội vã rút khỏi hoạt động kinh doanh rủi ro. Độ sâu thị trường giảm nhanh, lợi suất bù thanh khoản tăng cao. Tình trạng rối loạn thanh khoản thị trường có thể gây rủi ro đối với hệ thống tài chính. Căng thẳng rõ rệt gần đây trên thị trường chứng khoán có bảo đảm cho thấy, giá cả thay đổi đột ngột cùng với áp lực bán ra và cơ chế giảm đòn bẩy có thể dẫn đến tình trạng rối loạn điều kiện tài chính, đe dọa chức năng và mức độ ổn định thị trường. Trong những tháng cuối năm 2022, các nhà đầu tư đã rút dần hoạt động kinh doanh rủi ro, khi các NHTW tiếp tục thắt chặt tiền tệ và giảm thanh khoản, chao đảo thị trường tăng cao, triển vọng kinh tế trầm lắng. Các nhà đầu tư ngày càng thận trọng, tăng cường nắm giữ tiền mặt và tài sản dễ chuyển đổi sang tiền mặt, làm tăng thanh khoản USD trên thị trường vốn ngắn hạn. Đối với các doanh nghiệp, thách thức kinh tế vĩ mô và môi trường chính sách đang trút áp lực lên khu vực doanh nghiệp trên toàn cầu. Trong đó, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu lợi suất cao dễ bị tổn thương nhất. Mặc dù thu nhập của các doanh nghiệp kinh doanh chủ chốt vẫn tăng vững, nhưng chi phí lao động và đầu vào tăng cao đang xói mòn lợi nhuận. Lợi nhuận cận biên của các doanh nghiệp bắt đầu thu hẹp, hầu hết các khu vực kinh tế chủ chốt đều điều chỉnh giảm dự báo thu nhập. Giữa các khu vực, tăng trưởng tín dụng mở rộng đáng kể, nhất là trong những tháng cuối năm, các doanh nghiệp phải thu hẹp hoạt động do thanh khoản nghèo nàn. Tín dụng đầu tư dưới chuẩn như trái phiếu lợi suất cao và cho vay đòn bẩy mở rộng đến mức chưa từng có kể từ mùa xuân năm 2020. Điều này dẫn đến sự thu hẹp phát hành trái phiếu nợ rủi ro mới, nhất là trái phiếu lợi suất cao. Gần một nửa lượng mức xếp hạng tín dụng CCC chất lượng thấp đang giao dịch một cách chật vật và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu đã điều chỉnh lại triển vọng vỡ nợ của trái phiếu lợi suất cao. Tại các doanh nghiệp nhỏ, làn sóng phá sản bắt đầu hình thành và tăng cao tại AEs trong năm 2022 do những doanh nghiệp này dễ bị ảnh hưởng bởi chi phí vay vốn tăng cao và xu hướng thu hẹp các gói hỗ trợ tài khóa, cùng với chi phí lao động và đầu vào tăng cao, giá thành sản phẩm cao, không dễ được người tiêu dùng chấp nhận. Trong tương lai, dự báo lạm phát tiếp tục tăng và các NHTW tiếp tục thắt chặt tiền tệ, có thể chệch hướng đà phục hồi của khu vực doanh nghiệp và trầm trọng thêm rủi ro nợ nần. Theo phân tích của IMF, tỷ trọng nợ của các doanh nghiệp có lợi nhuận âm tăng nhanh tại tất cả các loại hình doanh nghiệp, vượt 50% tại nhóm doanh nghiệp nhỏ tại AEs và các nước mới nổi; tăng lên trên 1/3 số doanh nghiệp vừa và lớn, nhất là tại các nước mới nổi. Rủi ro nợ nần tăng cao, có thể gây thất thoát nguồn vốn ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng, làm cường điệu hóa các cú sốc. Điều này đòi hỏi các chính phủ phải có biện pháp hỗ trợ tạm thời và có mục tiêu, nhằm ngăn ngừa rủi ro bùng phát làn sóng vỡ nợ tại các doanh nghiệp nhỏ và tránh lan truyền sang hệ thống tài chính. Trước làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các tài sản rủi ro diễn ra trong thời gian gần đây, điều kiện tài chính đòn bẩy đã rối loạn rõ rệt. Trong quý III/2022, nợ phát hành trên thị trường tài chính đòn bẩy tại Mỹ giảm sâu xuống mức thấp. Tùy thuộc vào cơ cấu nguồn quỹ của chủ nợ tư nhân, tầm nhìn của nhà đầu tư, mức độ tập trung vị thế nắm giữ và mối liên kết có thể với khu vực ngân hàng, điều kiện tài chính thắt chặt có thể bị phóng đại bởi lượng thanh khoản tồn đọng và rủi ro tài chính gắn liền trong phân đoạn này. Liên quan đến thị trường nhà đất, giá nhà ở tại một số quốc gia đã tăng trên 20%, do tính đặc thù của đại dịch và hàng loạt yếu tố hình thành khi đại dịch bùng phát. Hoạt động kinh tế phục hồi nhanh hơn kỳ vọng, các biện pháp hỗ trợ tài chính chưa có tiền lệ đã góp phần duy trì tỷ trọng dịch vụ nợ ở mức thấp. Tình trạng tắc nghẽn nguồn cung đã làm giảm lượng hàng tồn kho, hỗ trợ tăng giá nhà ở. Kết quả là, tỷ trọng giá cả so với thu nhập tại nhiều nước đã tăng lên mức cao nhất trong hai thập kỷ qua. Khi các NHTW trên toàn cầu tăng cường thắt chặt tiền tệ để giảm áp lực tăng giá, chi phí vay vốn tăng mạnh và tiêu chuẩn cho vay khắt khe hơn, giá trị nhà ở mở rộng, có thể đẩy giá nhà ở giảm sâu, nhất là tại những quốc gia có tỷ trọng nợ cầm cố ở mức cao. Tại Mỹ, các biện pháp thắt chặt tiền tệ và lãi suất cao đã tác động nhanh chóng đến thị trường cầm cố nhà ở, với lãi suất cho vay cầm cố kỳ hạn 30 năm tăng trở lại lên mức cao như đã xảy ra vào năm 2008, trước khi giảm nhẹ phần nào vào giữa năm 2022. Tại một số quốc gia, giá nhà ở thực bắt đầu hạ nhiệt từ cuối năm 2021, nhưng có sự khác biệt giữa các quốc gia và khu vực. Trong quý IV/2021, giá nhà ở tại trung và đông Âu tăng khoảng 11%, nhưng giảm đáng kể tại các nước mới nổi châu Á, Mỹ Latinh, khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Tại Trung Quốc, thị trường bất động sản vốn đã giảm sâu, lại tiếp tục lao dốc do các biện pháp đối phó dịch Covid-19, trầm trọng thêm những khó khăn của các doanh nghiệp bất động sản. Trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 6/2022, các nhà đầu tư đã rút khoảng 75 tỷ USD từ các trái phiếu nhân dân tệ, bao gồm 15% trái phiếu chính phủ. Nhằm ngăn chặn rủi ro lan truyền từ thị trường bất động sản sang toàn bộ nền kinh tế vốn đang bị đè nặng bởi dịch bệnh, Chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại phải bơm ít nhất tỷ Nhân dân tệ vào lĩnh vực bất động sản trong những tháng cuối năm 2022. Đầu tháng 11/2022, Trung Quốc đã công bố kế hoạch 16 điểm chỉ đạo các ngân hàng và công ty tài chính hỗ trợ thị trường bất động sản. Các biện pháp rất đa dạng, từ bơm thanh khoản đến nới lỏng quy định. Trong kịch bản đảo ngược, giá nhà ở tại các nước mới nổi có thể giảm gần 25% trong 3 năm tới đây. Tại AEs, giá nhà ở có thể giảm trên 10%. Trong ngữ cảnh như vậy, áp lực đáng kể và triển vọng kinh tế mờ mịt là các yếu tố dẫn dắt xu hướng giảm giá nhà ở tại hầu hết các khu vực. Những rủi ro này sẽ trầm trọng hơn trong trường hợp điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt đột ngột, có thể dẫn đến suy thoái trong vài năm tới đây. Mặc dù mức độ trầm trọng và tác động kinh tế vĩ mô của cú sốc bắt nguồn từ thị trường nhà đất sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ điều chỉnh giá nhà ở và nợ của các hộ gia đình, nhưng tác động lan truyền sang khu vực ngân hàng hạn chế hơn nhiều so với những đợt suy thoái trước đây. Liên quan đến hệ thống ngân hàng toàn cầu, suy thoái và lạm phát có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của ngân hàng. Hệ thống ngân hàng vẫn bền vững trong đại dịch và tác động của cuộc chiến tại Ukraine, nhờ mức vốn khá cao và thanh khoản đệm dồi dào. Tỷ lệ vốn cổ phần cấp 1 CET1 tăng từ 12,5% vào năm 2019 lên 14,1% vào năm 2021, thu nhập lãi suất cải thiện nhờ các nỗ lực bình thường hóa chính sách tiền tệ và tăng lãi suất. Lợi nhuận của các ngân hàng lớn được củng cố nhờ thu nhập kinh doanh trong khi thị trường chao đảo mạnh, bảng cân đối tài sản tiếp tục cải thiện. Bước sang năm 2021, tín dụng bắt đầu tăng trở lại và đã chạm tốc độ trước đại dịch Covid-19, thanh khoản và điều kiện vốn vẫn lành mạnh, tiền mặt và dự trữ đã vượt mức trước đại dịch. Do triển vọng kinh tế xấu đi rõ rệt, các ngân hàng đang tái xây dựng dự phòng rủi ro tín dụng - lần đầu tiên kể từ sau đại dịch Covid-19. Những quý gần đây, điều kiện cho vay đã thắt chặt đáng kể, tiêu chuẩn cấp tín dụng khắt khe hơn. Trong khi đó, nhu cầu tín dụng tại AEs vẫn tăng vững, phản ánh nhu cầu của doanh nghiệp về vốn ngắn hạn do giá cả đầu vào tăng cao và các chuỗi cung ứng tiếp tục rối loạn. Trái lại, nhu cầu tín dụng tại các nước mới nổi bắt đầu giảm, ngày càng nhiều ngân hàng bày tỏ lo ngại về triển vọng kinh tế và rủi ro tín dụng, nhất là tại khu vực đồng euro. Để đánh giá những thách thức mà khu vực ngân hàng phải đối mặt trong trường hợp rủi ro trở thành hiện thực đối với tăng trưởng và lạm phát, IMF đã tiến hành điều tra tính bền vững của hệ thống ngân hàng trong trường hợp suy thoái kinh tế trầm trọng, nếu đại dịch tái bùng phát và căng thẳng địa chính trị chưa đến hồi kết, các chuỗi cung ứng rối loạn triền miên, bao gồm gián đoạn xuất khẩu khí đốt từ Nga sang châu Âu. Về tổng thể, hệ thống ngân hàng toàn cầu đang có đủ nguồn vốn để hấp thụ lỗ trong trường hợp căng thẳng, nhờ các nỗ lực cải cách sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và củng cố nguồn vốn trong những năm qua. Trong trường hợp khó khăn, CET1 có thể giảm từ 14,1% vào năm 2021 xuống mức tối thiểu 11,4% vào năm 2023, sau đó phục hồi nhẹ lên 11,5% vào năm 2024. Trong kịch bản căng thẳng, các ngân hàng tại các nước mới nổi sẽ đối mặt với mức lỗ lớn hơn so với tại AEs. Mức sụt giảm tối đa CET1 lên đến 4,3%, cao hơn 1,7% so với tại AEs. Đến cuối năm 2024, CET1 tại các nước mới nổi sẽ thấp hơn mức vốn cơ bản tới 5,5%, cao hơn 3,0% tại AEs. Nguyên nhân dẫn đến mức lỗ lớn hơn này là do mức nhạy cảm lớn hơn trước các cú sốc tài chính vĩ mô, dẫn đến sự suy giảm tín dụng, thu nhập từ lãi suất giảm, thiệt hại trong sổ kinh doanh và những chi phí khác. Nguyên nhân làm tăng mức lỗ kinh doanh là do lãi suất ngắn hạn tăng mạnh và chứng khoán chính phủ chiếm tỷ trọng khá cao trong danh mục tài sản đầu tư của ngân hàng. Tác động đến các ngân hàng tại các nước mới nổi cũng trầm trọng hơn do một số ngân hàng đối mặt với những tổn thương tài chính bổ sung bắt nguồn từ tỷ trọng nợ ngoại tệ khá cao. Trong kịch bản căng thẳng, các hệ thống ngân hàng quốc gia về cơ bản sẽ vẫn đáp ứng yêu cầu CET1 tối thiểu 4,5%, nhưng CET1 tại một số định chế tài chính có thể giảm xuống dưới ngưỡng tối thiểu này. Theo mẫu điều tra, thiệt hại này có thể chiếm 5% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng toàn cầu và có thể cần 77 tỷ USD để nâng CET1 trở lại tỷ trọng 4,5%. Hiện nay, lạm phát vẫn tiếp tục leo thang và áp lực giá cả lan rộng sang hầu hết các mặt hàng, các nhà tạo lập chính sách quốc gia đang tiếp tục bình thường hóa chính sách tiền tệ, một số NHTW bắt đầu giảm quy mô bảng cân đối tài sản. Do rất khó xử lý tình trạng tắc nghẽn nguồn cung do đại dịch Covid-19 gây ra và rối loạn thị trường bắt nguồn từ cuộc chiến tại Ukraine, cần điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng giảm nhu cầu trong nước để xử lý áp lực lạm phát liên quan. Ổn định giá cả là yếu tố quyết định để duy trì tăng trưởng bền vững, các NHTW phải kiên quyết kéo giảm lạm phát về mục tiêu đã đề ra, kiềm chế áp lực lạm phát và tránh chệch hướng kỳ vọng lạm phát. Mặc dù bóng đen bao trùm triển vọng kinh tế toàn cầu đang gây khó khăn cho các NHTW trong việc đưa ra giải thích phù hợp và định hướng chính sách chính xác về xu hướng chính sách tiền tệ trong tương lai, nhưng nếu có hoạt động truyền thông rõ ràng về phản ứng chính sách, cam kết về khả năng đạt được mục tiêu đề ra và sự cần thiết phải tiếp tục bình thường hóa chính sách thì sẽ duy trì niềm tin và tránh chao đảo thị trường. Theo khung khổ chính sách hội nhập của IMF, một số nước mới nổi đang quản lý chu kỳ thắt chặt toàn cầu có thể cân nhắc sử dụng kết hợp giữa can thiệp tỷ giá có mục tiêu với các biện pháp quản lý dòng vốn hay những nghiệp vụ khác để tạo thuận lợi trong việc điều chỉnh tỷ giá, góp phần giảm bớt rủi ro bất ổn tài chính và duy trì khả năng truyền tải chính sách tiền tệ một cách phù hợp. Tại các nước tiên phong và đang phát triển, khách hàng vay vốn cần tăng cường các nỗ lực kiềm chế rủi ro liên quan đến mức độ tổn thương nợ cao, kể cả thông qua mối liên hệ sớm với các bên cho vay, phối hợp đa phương và sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế. Việc luật hóa các kế hoạch củng cố tài khóa trung hạn sau các cú sốc gần đây có thể giúp kiềm chế chi phí vay mượn và tái cấp vốn, giảm nhẹ những lo ngại về tính bền vững nợ nần. Các nhà tạo lập chính sách cần kiềm chế nguy cơ hình thành những tổn thương tài chính tiếp theo. Khi cân nhắc các ngữ cảnh riêng của các đối tác và những thách thức kinh tế ngắn hạn, có thể điều chỉnh các công cụ chính sách vĩ mô lựa chọn khi cần thiết để kiểm soát tổn thương leo thang. Chủ động cân bằng giữa việc kiềm chế khả năng hình thành những tổn thương với việc tránh thắt chặt điều kiện tài chính theo chu kỳ và thiếu trật tự, đây là việc làm cần thiết trong bối cảnh bất ổn kinh tế tăng cao. Quan trọng nhất là cần thực thi các chính sách giảm thiểu rủi ro thanh khoản thị trường, nhằm tránh khả năng phóng đại các cú sốc. Các cơ quan giám sát cần theo dõi tính bền vững của hạ tầng thương mại và hỗ trợ minh bạch trên thị trường. Ngoài ra, cần nâng cấp các dữ liệu trao đổi để đánh giá kịp thời rủi ro thanh khoản. Do tầm quan trọng của các định chế tài chính phi ngân hàng, các bên đối tác cần theo dõi chặt chẽ hoạt động hằng ngày và rủi ro đòn bẩy, nâng cao năng lực quản lý rủi ro thanh khoản, tăng cường tính minh bạch và chuẩn bị đầy đủ dữ liệu cần thiết. Thị trường tài chính Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức Lạm phát tăng cao trên toàn cầu cũng gây áp lực đến thị trường trong nước, làm tăng chi phí đầu vào và giá cả những mặt hàng phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Cuối tháng 11/2022, một số ngân hàng thương mại đã nâng lãi suất huy động lên đến 10,5%/năm, đẩy lãi suất cho vay tăng cao. Do tác động từ bên ngoài có dấu hiệu giảm dần, thanh khoản của hệ thống các tổ chức tín dụng cải thiện, ngày 15/12/2022, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng định hướng năm 2022 thêm khoảng 1,5 - 2,0% cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Thị trường tài chính năm 2022 đối mặt với một số thách thức đáng quan tâm do tác động tiêu cực bắt nguồn từ lĩnh vực nhà đất, thị trường chứng khoán chao đảo mạnh. Trong phiên giao dịch ngày 16/11/2022, chỉ số Vn-index đã giảm xuống dưới 900 điểm. Lạm phát tăng cao cũng là yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư, tổng chi ngân sách nhà nước tính đến cuối tháng 11/2022 chỉ đạt nghìn tỷ đồng, bằng 76,2% dự toán năm; cán cân ngân sách nhà nước 11 tháng thặng dư khoảng 280 nghìn tỷ đồng. Với mức thặng dư này, ngân sách nhà nước vẫn đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn, thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động và khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Tuy nhiên, năng lực tài khóa hiện hành được cho là khá mong manh trước những tác động khó lường trong tương lai. Vì thế, cần nghiên cứu, xác định các biện pháp tăng nguồn thu trong dài hạn một cách bền vững, góp phần tăng cường năng lực tài chính và giảm nhẹ áp lực đối với chính sách tiền tệ trong việc chống lạm phát; nghiên cứu, thực hiện các giải pháp khôi phục, duy trì sự ổn định của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu, củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Về tổng thể, ổn định kinh tế vĩ mô là ưu tiên hàng đầu, nhất là trong bối cảnh tổng cầu thế giới đang dần suy giảm và mặt bằng lãi suất chung đang gia tăng mạnh mẽ tại các nền kinh tế lớn trên thế giới. Theo dõi chặt chẽ diễn biến USD và những dấu hiệu bất ổn tài chính trong nước, để có biện pháp can thiệp phù hợp khi tình huống xấu xảy ra, góp phần bình ổn thị trường tài chính - tiền tệ trong nước. Tăng cường quản lý nguồn cung USD cho nền kinh tế hỗ trợ xuất khẩu, tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, kiều hối, giảm nhập khẩu những mặt hàng không thực sự cần thiết. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về kinh tế vĩ mô, chủ trương chính sách của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để ổn định tâm lý thị trường. Nguồn tham khảo OECD, IMF, Tổng cục Thống kê Vũ Xuân Thanh Kinh doanhTiền của tôi Thứ ba, 21/6/2016, 0500 GMT+7 Những biến cố như đột ngột mất việc hay đổ bệnh là cơn ác mộng với tất cả mọi người, khiến bạn phải thực hiện nhiều thay đổi lớn trong tình trạng căng thẳng. Tuy nhiên, bạn có thể vượt qua bằng những hành động thực tế như tiết kiệm nhiều hơn, trả bớt nợ. Nó không chỉ giúp bạn lấy lại sự tự tin, mà còn cải thiện tâm trạng đáng kể. Bạn càng ít lo lắng về các vấn đề tài chính thì càng hạnh phúc. Theo Life Hacks, dưới đây là các bí quyết giúp bạn lấy lại được khả năng kiểm soát tài chính. 1. Xác định vấn đề Bước đầu tiên để thoát khỏi khủng hoảng là xác định được gốc rễ vấn đề. Khó khăn tài chính chỉ là dấu hiệu của một vấn đề khác lớn hơn, đòi hỏi giải pháp lâu dài. Giống như việc để một xô nước dưới vòi nước bị rỉ chỉ là giải pháp tạm thời. Nếu bạn sửa chính cái vòi, nước sẽ không bị rỉ nữa. Tương tự, thay vì lo lắng trước áp lực, hãy tập trung giải quyết vấn đề gây ra khó khăn tài chính. 2. Lập ngân sách Một trong những cách tốt nhất để giải quyết khó khăn tài chính là lập kế hoạch ngân sách. Nó có thể theo tuần, tháng hoặc năm, giúp bạn điều chỉnh chi tiêu. Điều quan trọng là bạn phải theo dõi ngân sách của mình ít nhất vài tuần một lần, để nắm rõ mình đã tiêu bao nhiêu và tìm ra những khoản chi có thể tiết kiệm, như giảm bớt các hoạt động giải trí, giảm ăn ngoài hay không mua đồ quá tay. 3. Lập ra các ưu tiên tài chính Xác định các ưu tiên tài chính là điều không thể thiếu nếu muốn vượt qua khó khăn tài chính. Những ưu tiên này giúp bạn có động lực thực hiện quyết định khó khăn, như trả hóa đơn tín dụng, lãi thế chấp hoặc tiết kiệm để sửa nhà. Chúng sẽ giúp bạn xử lý những rắc rối về tiền bạc và ổn định lại tài chính. Bạn cũng có động lực kiếm thêm thu nhập như làm ngoài giờ, cắt bớt chi phí nhà cửa hoặc thế chấp tài sản để có thể tận dụng linh hoạt các nguồn tài chính. 4. Giải quyết vấn đề Hầu hết mọi người có thể giải quyết khủng hoảng bằng cách cắt giảm chi tiêu và tăng thu nhập, hoặc kết hợp cả hai. Nhưng không phải ai cũng làm được như vậy, vì thay đổi phong cách sống luôn là điều khó khăn. Vậy nên, hãy hoàn thành các mục tiêu nhỏ trước khi thực hiện thay đổi lớn. Ví dụ, tập trung trả hết khoản nợ nhỏ nhất trước. Sau đó mới đến các khoản lớn. Nó sẽ giúp bạn nhanh chóng thoát cảnh nợ nần. 5. Triển khai kế hoạch và theo dõi tiến độ Khi đã tìm ra cách thoát khỏi khủng hoảng, hãy lập một kế hoạch cụ thể với mục tiêu cần đạt theo từng đợt. Đừng quên dành thời gian nhìn nhận lại tiến độ của mình để đánh giá và điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết. Những khó khăn tài chính thường bất ngờ phát sinh như những vị khách không mời mà đến. Bí quyết để đối phó với chúng là phải linh hoạt, lập và điều chỉnh ngân sách cũng như tạo ra những thay đổi thich hợp. Hà Tường theo Life Hacks Theo kết quả cuộc khảo sát của Ban nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân, hiện nay doanh nghiệp đang gặp phải một loạt những khó khăn trong đó phải kể đến khó khăn về trả lương lao động; trả lãi vay ngân hàng; trả tiền thuê đất/kho bãi/nhà xưởng/văn phòng; trả nợ gốc cho ngân hàng; đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... 6 khó khăn về tài chính Cuộc khảo sát doanh nghiệp từ 12-22/8 về tình hình sức khỏe tài chính của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát từ tháng 5/2021 do Ban nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân Ban IV thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ phối hợp với Báo điện tử VnExpress thực hiện cho thấy, số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động do ảnh hưởng của dịch Covid-19 chiếm tỷ lệ khá cao. Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy, tổng số DN tham gia khảo sát online, có đến 71% doanh nghiệp thuộc cả hai nhóm “tạm ngừng hoạt động do dịch” và nhóm doanh nghiệp “duy trì sản xuất kinh doanh” cho biết khó khăn lớn nhất mà họ đang gặp phải đó là trả tiền lương cho người lao động. Khó khăn thứ hai có tới 61% doanh nghiệp ở nhóm “tạm ngừng hoạt động do dịch” và 50% ở nhóm doanh nghiệp “duy trì sản xuất kinh doanh”.đang gặp phải đó là khó khăn về trả lãi vay cho ngân hàng. Khó khăn thứ ba là trả tiền thuê đất/kho bãi/nhà xưởng/văn phòng cho khu vực tư nhân với 57% doanh nghiệp ở nhóm “tạm ngừng hoạt động do dịch” và 40% ở nhóm doanh nghiệp “duy trì sản xuất kinh doanh”. Khó khăn thứ tư là đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ. Tương tự như vấn đề trả lương công nhân, tỷ lệ trả lời của hai nhóm này khá giống nhau là 51%, không có sự chênh lệch giữa hai nhóm. Khó khăn thứ năm là trả nợ gốc cho ngân hàng. Tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ gốc cho ngân hàng là 37% trong số doanh nghiệp “tạm ngừng hoạt động do dịch” và 31% trong số doanh nghiệp “duy trì sản xuất kinh doanh”. Khó khăn thứ sáu nhưng tỷ lệ khá tương đồng với khó khăn thứ năm là hơn 30% doanh nghiệp của cả hai nhóm đều cho biết, họ gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền điện, nước, nhiên liệu đầu vào. Khó khăn tài chính cho các khoản thanh toán của doanh nghiệp. Khi so sánh các khó khăn về thanh toán các khoản chi của hai nhóm doanh nghiệp trong cùng một khoản mục chi như chi trả lương, đóng BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ cũng như chi trả lãi vay, chi trả gốc các khoản vay, hay chi trả tiền thuê đất đai, nhà xưởng, văn phòng cho tư nhân thì tỷ lệ của nhóm doanh nghiệp “tạm ngừng hoạt động do dịch” thường cao hơn một chút hoặc bằng so với tỷ lệ của nhóm doanh nghiệp “duy trì sản xuất kinh doanh”. Tuy nhiên có sự khác biệt khá lớn khi xem xét khó khăn trong việc thanh toán các khoản chi liên quan đến phòng chống dịch. Tỷ lệ các doanh nghiệp “duy trì sản xuất kinh doanh” cho biết họ gặp khó khăn với các khoản chi liên quan đến xét nghiệm COVID-19 và các khoản chi khác theo yêu cầu chống dịch là trên dưới 30% còn tỷ lệ này ở các doanh nghiệp “tạm ngừng hoạt động” chỉ dao động quanh 10%. Kết quả này cũng phản ánh khá khách quan tình hình thực tế mà nhiều hiệp hội, doanh nghiệp kiến nghị trong thời gian qua. Đề xuất, kiến nghị Từ những khó khăn trên, các doanh nghiệp đã đề xuất một số chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn của dịch bệnh COVID-19. Trong đó, có đến 62% doanh nghiệp lựa chọn chính sách hỗ trợ vay với lãi suất 1-3%/năm để trả lương. Trong bối cảnh tạm ngừng hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải tìm cách giữ chân lao động chờ cơ hội khôi phục sản xuất, kinh doanh, bởi chi phí tuyển dụng lại là rất cao, nhất là với các nhóm nhân sự quản lý, chuyên môn kỹ thuật sâu. Ngoài ra, có tới 65% doanh nghiệp lựa chọn chính sách hỗ trợ giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Khi chi phí tăng, đặc biệt chi phí lao động, hay chi phí vận chuyển hàng hóa, thậm chí chi phí bị phạt hợp đồng do không bảo đảm thời hạn, số lượng hàng hóa, thì nhiều doanh nghiệp có thể cũng không còn lợi nhuận. Trong trường hợp này không có cơ hội để hưởng lợi từ chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó, gần 30% các doanh nghiệp cho rằng hoãn đóng bảo hiểm xã hội từ 3- 6 tháng hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân cũng là những chính sách hiệu quả. Các doanh nghiệp cũng mong muốn được vay vốn từ ngân hàng với lãi suất thấp để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ cấu lại nợ, giãn thời hạn nộp lãi và nợ gốc. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng kiến nghị cần có nhiều mô hình sản xuất kinh doanh an toàn để linh hoạt lựa chọn, thay vì chỉ có “3 tại chỗ”, bởi chi phí để đáp ứng yêu cầu là quá cao và ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ tài chính của doanh nghiệp… Trong báo cáo “Khuyến nghị phòng chống dịch và phục hồi kinh tế sau 15/8/2021” của Tổ tư vấn về chính sách phòng chống dịch và phục hồi kinh tế của TP Hồ Chí Mình ngày 9/8, báo có đề cập đến “gánh nặng tài chính của Doanh nghiệp thực hiện 3 tại chỗ” bao gồm Chi phí trợ cấp tiền lương cho người lao động đồng/ngày để họ chấp nhận ở lại công ty/nhà máy để tham gia sản xuất, chi phí ăn uống 3 bữa; Chi phí xét nghiệm đồng/lượt; Chi phí tổ chức ở và mua sắm vật dụng sinh hoạt”. Báo cáo khảo sát này có thực hiện thống kê ở 5 doanh nghiệp thực hiện 3 tại chỗ và cho biết, bình quân 5 doanh nghiệp này phải trả chi phí tăng thêm cho 1 người lao động là đồng/tháng. Tài chính là công việc sáng tạo và lý thú, tuy nhiên để trở thành chuyên viên giỏi sẽ khó hơn nhiều so với công việc kế toán. Thật vậy, với chuyên viên kế toán chỉ cần có kiến thức kế toán nhất định, đức tính cẩn trọng và làm việc vài năm tích lũy kinh nghiệm là đạt yêu cầu. Trong khi nhiều chuyên viên tốt nghiệp đại học ngành tài chính, công tác nhiều năm vẫn không đáp ứng yêu cầu công việc. Bởi vì để trở thành một chuyên viên tài chính thực sự, không chỉ nắm kỹ thuật và có kinh nghiệm; mà cần có khả năng am tường hoạt động kinh doanh của công ty trong bối cảnh nền kinh tế đa dạng. Từ đó dẩn đến khả năng diển dịch và dự đoán được tình hình và xu thế kinh doanh dưới dạng đồng vốn, để quản trị đồng vốn đạt hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh. Khả năng này không chỉ bằng tích lũy kinh nghiệm trong công tác, mà cần có kỹ năng thu thập chọn lọc thông tin, phân tích và đưa ra các giải pháp hợp lý nhất. Phải chăng có một số tố chất bắt buộc để chọn theo ngành này, Không phải siêng năng mà là kiên trì; Không phải cẩn thận mà là tỉnh táo; Không phải chuẩn mực mà là tưởng tượng táo bạo; Không phải là sự tính toán tỉ mỉ chính xác mà là khả năng khái quát hóa với sự làm chủ sai số và xác suất. Đó có phải là sự kết hợp giữa tính lãng mạm của người nghệ sỹ, tinh thần khai phá của người thám hiểm và tính cần cù của nhà nông luôn tin vào mùa vụ bội thu bằng lao động gieo trồng hôm nay. Xin nhường cho các bạn cảm nghiệm thêm. Dưới đây là một số cảm nghiệm về quản trị tài chính để chia sẽ cùng bạn đọc, với niềm tin sẽ giúp các bạn tiếp cận và vận dụng tốt hơn những kiến thức đã tiếp cận trong khóa học 1. Tất cả các bài toán tài chính phức tạp đều có thể quy về bài toán cơ bản với một phép toán trừ Những chuyên gia giỏi, có lẽ phân tích vấn đề với phép toán đơn giản hơn nhiều so với chúng ta hình dung ? Trong quá trình quản trị tài chính, chúng ta lần lượt tiếp cận nhiều bài toán phân tích phức tạp; từ suất sinh lời của vốn kinh doanh, điểm hòa vốn, giá trị cổ phiếu, hiệu quả đầu tư … đa dạng đến mức chúng ta có thể lạc vào mê trận của thuật ngữ và kỹ thuật, tưởng như mỗi lãnh vực là một vùng trời riêng biệt. Nhưng nếu đứng lùi ra xa và nhìn bao quát thì sự việc có thể diển dịch đơn giản, quy về một công thức là Doanh thu trừ chi phí hoặc nguồn thu trừ vốn đầu tư, kết quả của phép toán trừ này nếu dương thì có lợi nhuận hiệu quả. Đọc đến đây nhiều bạn sẽ không đồng ý vì …. Tuy nhiên chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vẻ đẹp của công thức Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí hay Thu nhập ròng = Thực thu – thực chi, là cơ sở cho mọi công thức tài chính khác. Tôi được dịp tham dự một cuộc họp quyết định phương án đầu tư một chung cư cao cấp tại diện tích khu đất là Sau khi hỏi một vài câu về vị trí, Ông TGĐ một nhà đầu tư nổi tiếng tại ra quyết định giá mua trong khoản 52 – 54 tỷ là mua được, và dự kiến lãi khoảng 25%, và sau đó tôi còn được thấy một số quyết định tương tự cho những dự án kinh doanh khác. Lúc đó tôi khá ngạc nhiên, nhưng khi tôi tính toán cụ thể thì kết quả là tương đương; sau này được dịp trao đổi tôi mới thấy khả năng sử dụng phép tính quy giản tuyệt vời của ông. Từ nhiều cách thức phân tích tương tự của chính tôi và một số nhà quản trị nêu trên, tôi nhớ đến nhà vật lý thực nghiệm nổi tiếng Fermi, trong quá trình tìm những nghiệm cho phương trình tạo bom nguyên tử, ông đã làm các chuyên gia điện toán ngạc nhiên khi những phép toán đơn giản của ông có kết quả gần như máy điện toán đã giải. Trình bày những điều này tôi không hề muốn làm giảm giá trị các phép toán tài chính phức tạp là nội dung chính đào tạo trong khóa học này. Tôi muốn nhấn mạnh một ý quan trọng, "để trở thành một nhà quản trị tài chính thực thụ, các bạn cần lĩnh hội được vẽ đẹp chân phương của công thức đơn giản trên sau khi đã xuyên qua những kỹ thuật chuyên sâu của tài chính". Điều này đã được Kim Dung thể hiện tuyệt vời trong đoạn mô tả Trương Tam Phong dạy Thái cực quyền cho Trương Vô Kỵ, và thường khái quát trình độ vận dụng võ học của các đại cao thủ, đó là "vô chiêu thắng hữu chiêu". Một liên tưởng khác, trong tiến trình học hỏi nghiên cứu, chúng ta dể đồng ý với câu ngạn ngử phương tây "chúng ta biết ngày càng nhiều trước sự chưa biết, ngày càng ít đi, cho đến khi không sự việc gì chúng ta không biết". Tuy nhiên John Bogle John Bogle là nhà đầu tư hàng đầu của Mỹ, đã đưa ra phương pháp đầu tư chỉ số trong chứng khoán, áp dụng cho Quỹ đầu tư hàng đầu Vanguard Investment group do ông sáng lập. Phương pháp này đã mang lại thành công vượt bực đưa quỹ tương trợ Vanguard thành quỹ lớn thứ 2 thế giới với vốn đầu tư lên đến 250 tỷ USD chỉ trong một thập niên. lại nói rằng "chúng ta biết ngày càng ít trước sự việc chưa biết ngày càng nhiều, cho đến khi chúng ta không biết gì hết về mọi sự việc". Có điểm tương đồng nào không giữa nhận định của nhà tài chính nổi tiếng này với “vô chiêu” của Kim Dung và cao thâm hơn nữa là "vô vi" của Lão Tử. Trở về với công việc phân tích tài chính, trong khi nhiều người cứ mãi mê bới tìm những kỹ thuật, những công thức để cố gắng áp thực tế vào một khuôn mẩu có sẳn nào đó như tầm chương trích cú trong nho học, thì các chuyên gia, những người đã đạt nguyên lý đơn giản của tài chính “thu nhập bằng thực thu trừ thực chi”, có lẻ sẽ phân tích vấn đề với phép toán đơn giản hơn rất nhiều so với chúng ta hình dung ? 2. Để giải các bài toán tài chính cần có khả năng xây dựng được mô hình tài chính Một bài toán tài chính có thể phân làm ba giai đoạn xử lý. Giai đoạn 1 là xác định các yêu cầu và tập hợp các dữ liệu cần thiết; giai đoạn kế tiếp là sử dụng các phép toán thích hợp xây dựng mô hình tài chính để tính ra kết quả; cuối cùng là phân tích các kết quả để đưa ra nhận định đánh giá và chọn lựa phương thức thực thi. Trong đa số trường hợp trong giai đoạn 1 chúng ta không bao giờ thu thập đầy đủ thông tin cần thiết cũng như mức độ tin cậy chắc chắn, có thể do khách quan các thông tin dự báo, các thông tin mà người phân tích không thể tiếp cận hoặc do chủ quan người phân tích không có đủ thời gian hoặc chi phí để thu thập. Sự thiếu hụt dữ liệu này dẫn đến trong giai đoạn tính toán, chúng ta sẽ gặp khó khăn không biết cách giải quyết bài toán do không tìm thấy một mô hình chuẩn. Điều này thường dẫn đến hai khả năng, hoặc cho rằng không thể giải bài toán, trường hợp ngược lại nếu có người giải bài toán thì lại tỏ ra nghi ngờ tính chính xác vì không đúng với sách vở. Vấn đề chính là chổ chúng ta quá thụ động với mô hình được trình bày trong các sách lý thuyết, mà quên rằng những mô hình đó được khái quát hóa từ vô vàn mô hình thực tế. Do vậy khi áp dụng vào một bài toán thực tế, chúng ta phải có khả năng chuyển mô hình khái quát trong lý thuyết thành mô hình ứng dụng cụ thể. Cốt lõi trong việc xây dựng một mô hình tài chính phù hợp với một trường hợp cụ thể, thứ nhất là chúng ta phải hiểu được bản chất kinh tế của bài toán, thí dụ việc phân tích biến phí_định phí của sản xuất may mặc khác với khu Resort nghỉ dưỡng. Điểm thứ hai là chúng ta phải chấp nhận sai số khi thiếu thông tin Điều này được minh họa tuyệt vời trong các bài toán dành cho ứng viên của MicroSoft, như câu hỏi yêu cầu ứng viên hãy cho biết trong nước Mỹ có bao nhiêu trạm xăng, khi đó chúng ta sẽ chọn phép giải có sai số chấp nhận được. Chúng ta hãy nhớ lại bài toán tính diện tích, nếu miếng đất có hình chử nhật thì chúng ta dể dàng áp dụng công thức. Nhưng nếu có hình phức tạp ao hồ, dãy đất ven biển mà công thể tìm ra công thức tính diện tích chuẩn nào, khi đó chúng ta có thể áp dụng phép tích tích phân của Newton với những sai số cho phép. Như vậy đứng trước một bài toán tài chính, chúng ta cần phải chọn lựa và điều chỉnh mô hình tài chính để phù hợp với yêu cầu và sai số cho phép, điều này đòi hỏi tính sáng tạo của chúng ta. 3. Trong quản trị tài chính không có một lời giải duy nhất Mà lời giải được chọn lựa từ không gian giải pháp với sự cân nhắc giữa mức thành công đem lại và xác suất thất bại. Trong kinh doanh, rất nhiều quyết định trái ngược nhau cùng dẫn đến thành công. Tập trung vào một ít sản phẩm như Coca cola KO hay đa dạng như & đầu tư chứng khoán theo chỉ số của John Bogle hay theo giá trị như Maro Gabelli….điều đấy cho thấy có nhiều phương thức kinh doanh khác nhau cùng đạt được hiệu quả cao. Các giải pháp tài chính là sự hoạch định các hoạt động kinh doanh dưới dạng đồng vốn, do vậy cũng sẽ có rất nhiều giải pháp khác nhau. Khi triển khai các giải pháp kinh doanh chúng ta sẽ có nhiều chọn lựa công suất lớn hay vừa phải, thiết bị tự động hay bán tự động, đầu tư toàn bộ hay có kết hợp thuê ngoài …, mỗi chọn lựa lại có nhiều khả năng khác nhau, thí dụ chọn công suất lớn có khả năng khai thác từ 50% - 80% công suất, tổ hợp các điều này chúng ta có nhiều giải pháp khác nhau mà chúng ta không chắc rằng giải pháp nào cho kết quả tốt nhất. Điều này làm cho bước nhận định và chọn lựa phương thức thực thi sẽ rất khó khăn. Vấn đề chính là ở chổ chúng ta cần chọn lựa giải pháp thích hợp nhất với mục đích và điều kiện của chúng ta, thí dụ nếu chúng ta đang gặp khó khăn về vốn thì giải pháp ít đòi hỏi chi phí đầu tư sẽ được ưu tiên chọn lựa. Điều cần nhớ là bao giờ chúng ta cũng có một số giải pháp để chọn lựa, mỗi giải pháp sẽ đòi hỏi một số điều kiện để đảm bảo khả năng thành công. Chính vì thực tiển này đôi khi người ta nhận định quản trị tài chính là một nghệ thuật; tuy nhiên chúng tôi muốn nói rằng đó là nghệ thuật của các con số và định luật kinh tế, mà nếu không tuân thủ thì chắc chắn sẽ bị trả giá. Ngạn ngữ có câu “mọi con đường đền dẫn tới Roma”, các chuyên gia tài chính sẽ nói thêm “ nhưng trong số đó sẽ có những con đường tốt hơn, và chúng ta sẽ chọn ra một con đường có xác suất tốt nhất trong điều kiện của chúng ta” 4. Phương pháp dòng tiền chiết khấu, kỹ thuật quan trọng giải bài toán tài chính Nếu chọn ra một nguyên lý quan trọng nhất của Tài chính hiện đại, thì đó là nguyên lý giá trị đồng tiền biến đổi theo thời gian; có nghĩa là giá trị đồng tiền hôm nay khác với giá trị đồng tiền năm sau và năm sau nửa. Theo nguyên lý này, chúng ta không thể so sánh trực tiếp các số tiền khác thời điểm. Thí dụ nếu chúng ta bỏ ra 1 tỷ đồng mua một miếng đất và sau 3 năm chúng ta bán được 1,4 tỷ thì chúng ta có lãi hay không, phép toán trừ có kết quả lãi 400 triệu không được chấp nhận. Nhiều chuyện kinh doanh khác phức tạp hơn, thí dụ chúng ta đầu tư 100 tỷ đồng xây dựng nhà máy chế biến thủy sản, và dự kiến nguồn thu dần dần trong 10 năm là thời gian sử dụng thiết bị đã đầu tư cộng lại là 180 tỷ thì có nên đầu tư hay không? Rồi chuyện bỏ ra một số tiền lớn để mua các cổ phiếu của một công ty còn chưa có tiếng tăm để 2 năm sau khi cổ phiếu được giá sẽ bán, khi đó giá bán CP tối thiểu là bao nhiêu để chúng ta có lãi 20%/năm…. Để giải quyết các vấn đề này chúng ta sử dụng kỹ thuật chiết khấu dòng tiền, quy số tiền các năm tương lai về năm hiện tại để có thể so sánh trực tiếp khi đó mới sử dụng công thức thu nhập = thực thu – thực chi. Như vậy đây là phương pháp quan trọng bật nhất của tài chính, được áp dụng để giải các bài toán tài chính đầu tư phức tạp như hiệu quả dự án đầu tư, định giá CP và bất động sản, định giá doanh nghiệp… Đối với chuyên viên phân tích tài chính một khi đã nắm vững phương pháp này kết hợp với mô hình tài chính thì tất cả bài toán tài chính, dù phức tạp đến đầu cũng có thể giải quyết, như là một đại cao thủ đã đạt được nguyên lý võ học, có thể biến hóa quyền pháp tùy cơ. Đặt biệt với công cụ Excel, đã giải phóng sự nặng nhọc trong các phép tính; thì việc giải bài toán tài chính bằng mô hình và phương pháp chiết khấu dòng tiền trở thành một nghệ thuật thú vị, có thể trả lời nhiều câu hỏi một cách nhanh chóng. 5. Rủi ro và thu nhập, Triết lý tạo ra sự phong phú trong sản phẩm tài chính Bước vào thế giới tài chính chúng ta thấy có quá nhiều luật chơi, các sản phẩm phong phú và đa dạng. Xét về huy động vốn của doanh nghiệp, chúng ta có cổ phiếu ưu đãi, CP thường, vay NH, trái phiếu, trái phiếu lãi suất biến đổi, trái phiếu chuyển đổi…Trong lĩnh vực các tổ chức cấp vốn chúng ta có Ngân hàng, công ty tài chính, thuê mua tài chính, Quỹ đầu tư tương hỗ, Quỹ đầu tư mạo hiểm…còn các công cụ kinh doanh tiền tệ thì hợp đồng giao sau, hợp đồng quyền chọn… Khi vào một Casino bạn sẽ hoa mắt vì quá nhiều trò chơi, từ chơi tài_xỉu với khả năng ăn thua tương đương gần 1 - 1 cho đến khó thắng hơn khi chơi quay Rulex bỏ 1 đồng trúng sẽ được 70 đồng nhưng khả năng thắng chỉ có 1%. Rỏ ràng bạn có thể chọn trò chơi tuỳ ý nhưng không có trò chơi nào sẽ có lợi cho bạn hơn trò chơi khác, mà chỉ là phần thưởng cao thì khả năng thắng thấp hoặc ngược lại. Về mặt nào đó, tiền thắng và khả năng mất trong các trò chơi của Casino cũng tương tự các công cụ và sản phẩm tài chính. Nhà quản trị tài chính luôn phân vân trong việc huy động vốn, vay ngân hàng hay phát hành thêm CP; nếu vay sẽ hứa hẹn mang lại hiệu quả cao hơn cho các cổ đông hiện tại nhưng cũng tạo ra áp lực rủi ro trả nợ. Trường hợp khác, để đảm bảo khả năng sinh lợi an toàn của một hợp đồng xuất khẩu lớn, CFO có thể sử dụng hợp đồng bảo hiểm tỷ giá với chi phí chấp nhận được. Tuy nhiên nếu công cuộc kinh doanh nào cũng sử dụng các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro thì khả năng thu lợi sẽ không còn nữa. Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính đã tạo ra các loại hình tài chính và dịch vụ tài chính phong phú dựa trên mối quan hệ giữa rủi ro và thu nhập; một nhà quản trị tài chính có kinh nghiệm sẽ chọn lựa những công cụ thích hợp trong quá trình quản trị và phát triển đồng vốn của mình. Nhưng nhất quyết không bao giờ được liều lĩnh đưa doanh nghiệp vào cuộc chơi đỏ đen đầy rủi ro. 6. Quản trị rủi ro là nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính Ngày nay nếu có nhiệm vụ cốt yếu nào mà nhà quản trị tài chính cần phải gánh vác thì đó là nhiệm vụ quản trị rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập, các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh, lĩnh vực nào hứa hẹn sinh lợi nhất thường gặp phải cạnh tranh mạnh nhất hoặc là lĩnh vực có khả năng thất bạo cao. Các chuyên gia kinh tế hàng đầu của thế giới cùng chung quan điểm “rủi ro là thuộc tính của nền kinh tế trong kỹ nguyên mới”. Trong tác phẩm Rethinking the Future Tác phẩm tập hợp những bài phân tích về xu thế của nền kinh tế trong sự tác động của làn sóng thứ 3 về công nghệ do Rowan biên soạn được NXB Trẻ xuất bản dưới tựa đề Tư duy lại tương lai. Alvin và Heidi Toffler đã trình bày khái quát “ khi phương thức tạo ra của cải của làn sóng thứ ba được triển khai rộng rãi, được đánh dấu bởi sự xáo trộn và xung đột xã hội, thì nó sẽ tạo ra một tình trạng không thể tiên đoán trước ở mức độ cao và những điều kiện phi tuyến tính”. Xét về vĩ mô đó là chu kỳ kinh tế các nước phát triển ngày càng ngắn hơn, về vi mô chúng ta đã chứng kiến nhiều đại gia tưởng rằng bất khả xâm phạm đã có những thời điểm suy thoái nặng nề như IBM, For, Nisan... Chúng ta cũng thấy sự suy thoái rồi hồi sinh đầy thuyết phục của Apple, Samsung… Trong thực tiển tại các nước phát triển, các công ty luôn đối đầu với những bất trắc do môi trường kinh tế tác động, dù là công ty đa quốc gia hay tầm địa phương. Thực tiển này đặt ra cho nhà quản trị tài chính công ty cần chuẩn bị một nguồn lực đủ mạnh để vượt qua những đợt suy thoái nghiêm trọng giúp cho công cuộc kinh doanh không bị sụp đổ một cách đáng tiếc. Trong đợt kiện chống bán phá giá thủy sản vừa qua của Mỹ, những xí nghiệp chế biến yếu lực phải phá sản, trong khi một số công ty có nguồn lực và năng động đã trụ được và phát triển mạnh khi VN gia nhập WTO là một minh họa. Hãy luôn nhớ, khi gặp khó khăn nghiêm trọng thì mọi chiến lược khắc phục đều cần tới nguồn lực tài chính, và nhiều công ty đã bị phá sản bởi vì không có sự chuẩn bị nguồn lực tài chính cần thiết, đã quá mãi mê vay mượn phát triển đầu tư mà thiếu chiến lược tài chính tốt để quản trị rủi ro. 7. Nhà quản trị tài chính luôn nhớ quy luật " Lượng đổi chất đổi" Có một câu nói kinh điển mà các giảng viên khoa quản trị kinh doanh hay giới thiệu cho các sinh viên, đó là “ chi 1 triệu USD mà hợp lý cũng sẳn sàng, nhưng chi 1 USD không đúng sẽ dứt khoát không chi”. Chúng ta không cần bàn luận thêm câu phát biểu đầy hàm ý này. Nhưng tôi muốn nói với các chuyên viên tài chính trẻ một câu khác “chi 1 USD thì không phải đắn đo gì nhiều, nhưng chi 1 triệu USD thì cần đặt lên đặt xuống nhiều lần trước khi quyết định”. Tôi đã thấy một ông giám đốc ra những quy định chi tiết về việc in 2 mặt của tờ giấy mà không phân tích việc này tiết kiệm được bao nhiêu, trong khi dự án đầu tư hàng chục tỷ, nhưng lại không muốn chi vài chục triệu cho công tác điều tra thị trường, nghiên cứu công nghệ thiết bị. Tôi cũng thấy một công ty rất vững mạnh có thương hiệu và sản phẩm bán chạy; nhưng đang đứng trên bờ vực do đã đầu tư một dự án mới với vốn đầu tư, chủ yếu là vốn vay lớn hơn nhiều quy mô vốn đang kinh doanh hiện tại; với quy mô đó khi dự án gặp khó khăn thì không cách gì sử dụng nguồn lực hiện có để bù đắp. Lượng đổi chất đổi là một quy luật triết học đặc biệt quan trọng mà nhà quản trị tài chính cần ghi nhớ. Khi công ty tăng quy mô và vốn rất lớn thì phương thức cổ phần đại chúng sẽ tốt hơn hình thức TNHH; một sự gia tăng vay nợ vượt tỷ lệ an toàn, một khách hàng có mức dư nợ tăng dần,… đều là những cảnh báo cần phải có phương thức tác động thích hợp, nếu không sẽ đưa tình hình tài chính công ty vào chổ nguy hiểm. Vận dụng điều chỉnh quản trị tài chính theo từng giai đoạn tăng trưởng của công ty, chính là giúp cho tình hình tài chính công ty luôn vững mạnh 8. Chủ động - Sáng tạo là phẩm chất quan trọng nhất của nhà tài chính Sau cùng tôi muốn kể cho các bạn một truyền thuyết thời Đông Châu liệt quốc. Tô Tần sau khi học thành tài được Quỹ Cốc tiên sinh tặng cho một quyển bí quyết về nghệ thuật du thuyết. Tô Tần đọc làu thông và đi du thuyết, nhưng suốt 3 năm tiêu tốn tiền của gia đình vẩn thất bại ôn hận trở về. Sau đó Tô Tần đọc lại bí quyết và mới phát hiện trang cuối có ghi lời thày “bao giờ con quyên những điều trong đây thì con đã lĩnh hội xong bí quyết và có thể xuất sơn”. Tô Tần quyết định suất gia lần nửa và ông đã trở thành tướng quốc của 6 nước chống với nhà Tần. Cũng có thể sau lần đọc lại Tô Tần đã kết hợp với những kinh nghiệm thực tế của mình nên nhìn vấn đề tốt hơn, cũng có thể ông đã lĩnh hội được sự sinh động của kiến thức mà chính mình phải tạo ra. Câu chuyện này có nhiều điểm tương đồng với câu chuyệu “ vô chiêu” ở trên, nhưng nó không chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Các Trường đại học của Mỹ hiện nay không còn hình thức thày giảng trò ghi, lời thầy là chân lý; mà đã chuyển sang hình thức thày là người giới thiệu, gợi ý; trò là chủ thể nghiên cứu, học hỏi – tranh luận – sáng tạo. Như vậy “ học là quá trình để quên ” của các câu chuyện trên đây có ngụ ý “ học là quá trình để biến cái được thấy thành cái của mình, với những ý tưởng mới đầy sáng tạo trong các thực tiển mình đang gặp phải”. Tìm hiểu thêm qua tài liệu đầy đủ “Quản lý tài chính trong kỷ nguyên mới 5 yêu cầu quan trọng Giám đốc tài chính CFO cần biết”. Nguồn Sức ép tài chính tăng mạnh ở các khu vực đô thị đông dân nhất của nước Mỹ. Khó khăn của các gia đình có thể còn lớn hơn trong những tuần tới, khi giá thực phẩm tiếp tục tăng, lãi suất tăng và nền kinh tế phục hồi chậm. Theo khảo sát mới nhất của Cục Thống kê Dân số Mỹ với các hộ gia đình, hơn 1/3 số người Mỹ gặp khó khăn khi thanh toán các hóa đơn, cho thấy việc giá hàng hóa tiêu dùng tăng mạnh đã ảnh hưởng ra sao đến túi tiền của họ. Tỷ lệ những người được hỏi nói họ hoặc là ít nhiều hoặc là rất khó khăn cho việc thanh toán các khoản chi tiêu bình thường cho gia đình là gần với mức đỉnh vào năm 2020, vào thời điểm đại dịch diễn biến nghiêm trọng nhất. Khảo sát được tiến hành trong giai đoạn 27/4-9/5, tại các thành phố như Los Angeles và Miami, cứ 10 hộ gia đình thì có hơn 4 hộ có khó khăn về tài chính. Cục Thống kê Dân số Mỹ tiến hành khảo sát hàng tuần khi đại dịch bùng phát để thu thập số liệu cho thấy đại dịch đã tác động ra sao đến đời sống của người dân. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, lạm phát tại Mỹ đã tăng mạnh lên các mức cao nhiều thập niên trong những tháng gần đây, khiến mọi thứ trở nên đắt đỏ hơn, từ xăng đến thịt gà, trứng, sữa và giá phòng nghỉ. Trong khi đó, mức tăng lương không theo kịp. Khảo sát cho thấy sức ép tài chính tăng mạnh ở các khu vực đô thị đông dân nhất của nước Mỹ. Tại Dallas, tỷ lệ những người được hỏi đang gặp khó khăn trong việc thanh toán hóa đơn tăng từ 23% vào tháng Tám năm ngoái, lên khoảng 37%. Khó khăn của các gia đình có thể còn lớn hơn trong những tuần tới, khi giá thực phẩm tiếp tục tăng, lãi suất tăng và nền kinh tế phục hồi chậm. Hóa đơn năng lượng tăng cũng đang gây sức ép lên nhiều gia đình và có thể tăng thêm trong mùa Hè, khi nhu cầu sử dụng điều hòa lớn. Trong khảo sát mới nhất, hơn 1/4 số hộ gia đình tại Los Angeles cho biết họ không thể thanh toán đủ hóa đơn năng lượng trong năm qua. Tại Miami, tỷ lệ này là trên 20%.

khó khăn tài chính