Prana (nghĩa của "cũ") là một cuốn bách khoa toàn thư về văn học, nhưng nó chứa đựng nhiều huyền thoại và truyền thuyết. Các huyền thoại của hai sử thi và kinh điển Prana đã được công chúng yêu thích rộng rãi cho đến nay và là chủ đề của các tác phẩm văn học và Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Số hóaCông nghệ Thứ tư, 7/11/2001, 0935 GMT+7 Đây là phần mềm tham dự cuộc thi "Trí tuệ Việt Nam 2001", của hai tác giả Hà Thế Hoàng và Ngô Sơn Dương Hà Nội. Với giao diện sinh động, "Bách khoa toàn thư - thiên văn học" cung cấp kiến thức tổng hợp về mặt trời, mặt trăng và các thiên hà lung linh kỳ ảo khác. Phần mềm Bách khoa toàn thư - thiên văn mềm bao gồm Lịch sử thiên văn học, Khám phá vũ trụ, Nhìn ra không gian, Hệ mặt trời và Trò chơi. "Lịch sử thiên văn học" đưa ra cái nhìn khái quát về lịch sử phát triển của thiên văn qua cuộc đời của 40 nhà thiên văn nổi tiếng. "Khám phá vũ trụ" là kho tư liệu chuyên sâu hơn về các thành phần trong vũ trụ, như hố đen, các ngôi sao, vụ nổ Big Bang, thiên hà, ngân hà, bóng tối. Người sử dụng có thể cách click vào các biểu tượng bằng chữ tương ứng với phần mình muốn xem. Bách khoa toàn thư - thiên văn học còn tạo lập một bầu trời thông qua kho tư liệu các hình ảnh, video về vũ trụ, trong phần "Nhìn ra không gian". Ở phần "Hệ mặt trời", các tác giả đã dùng giao diện hoàn toàn mới gồm các menu, những nút liên kết nhanh chóng, và hộp hội thoại tìm kiếm. Phần này cung cấp những thông tin về các sao Mộc, Thuỷ, Hoả, Thiên Vương... Giao diện phần "Trò chơi".Phần "Trò chơi vừa phục vụ mục đích giải trí, vừa kiểm tra kiến thức bằng cách lấy được chìa khoá giải thoát cho các con thú thông qua trả lời những câu hỏi. "Trò chơi" chính là phần kiểm tra được liên kết với cơ sở dữ liệu, nó sẽ lấy nội dung câu hỏi đã được soạn thảo từ trước. Đây có thể coi là một điểm mạnh của Bách khoa toàn thư - thiên văn học, bởi các câu hỏi luôn thay đổi, không đơn điệu, khô cứng. Đôi nét về các tác giả Hà Thế Hoàng đang học lớp 12 và mới học về lập trình máy tính được hơn 1 năm, chuyên về cơ sở dữ liệu và đồ hoạ. Còn Ngô Sơn Dương đang theo năm thứ 2 tại Trung tâm Aptech - FPT Hà Nội. Tuy bận học, nhưng với lòng khao khát có được một phần mềm tốt, luôn mong được học hỏi, nên Hoàng và Dương đã cố gắng làm chương trình Bách khoa toàn thư - thiên văn học. Đây là một chương trình về thiên văn học công phu và khá đầy đủ, bởi nó được tổng hợp và biên dịch từ nhiều tài liệu tiếng Anh mới nhất, cùng với những thu thập thông tin qua các website. Cuốn sách “Bí mật vũ trụ” của tác giả Trần Thoại Lan nâng tầm kiến thức của chúng ta lên một chương mới, cuốn sách cho chúng ta một cái nhìn khái quát về lịch sử chinh phục vũ trụ của loài người, từ những luận bàn về Khoảng không bao la kia, cho đến những vị khách của vũ trụ, và cả việc xây dựng một Thành phố vũ trụ. Ngoài ra còn giải đáp các thắc mắc vốn có sẵn trong mỗi chúng ta Hệ Mặt trời có phải là điểm cuối của vũ trụ, Ngân Hà của chúng ta là gì? Thiên hà gần nhất cách chúng ta bao xa, đơn vị tính khoảng cách giữa các thiên hà thường dùng bằng gì? Tất cả các bí mật đang dần mở rộng ra trước mắt chúng ta thông qua cuốn sách Bí Mật Vũ Trụ? Còn chần chờ gì nữa – hãy khám phá nào? Trong bài viết này giới thiệu đến bạn kiến thức cơ bản về vũ khảo từ wikipedia Vũ trụ bao gồm tất cả các vật chất, năng lượng và không gian hiện có, được coi là một tổng thể. Vũ trụ hiện tại chưa xác định được kích thước, nó đã được mở rộng kể từ khi thành lập ở Big Bang khoảng 13 tỷ năm Vũ trụ bao gồm các hành tinh, sao, thiên hà, các thành phần của không gian liên sao, những hạt hạ nguyên tử nhỏ nhất, và mọi vật chất và năng lượng. - Vũ trụ quan sát được có đường kính vào khoảng 28,5 tỷ parsec 93 tỷ năm ánh sáng trong thời điểm hiện tại và ước tính có khoảng 2 nghìn tỉ thiên hà và khoảng 3×10 23 ngôi sao. Các nhà thiên văn chưa biết được kích thước toàn thể của Vũ trụ là bao nhiêu và có thể là vô Thành phần năng lượng chủ yếu trong Vũ trụ thuộc về một dạng chưa biết tới gọi là năng lượng tối. Đa phần khối lượng trong Vũ trụ cũng tồn tại dưới một dạng chưa từng biết đến hay là vật chất Lý thuyết Vụ Nổ Lớn Không gian và thời gian được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn, và một lượng cố định năng lượng và vật chất choán đầy trong nó; khi không gian giãn nở, mật độ của vật chất và năng lượng giảm. Sau sự giãn nở ban đầu, nhiệt độ Vũ trụ giảm xuống đủ lạnh cho phép hình thành lên những hạt hạ nguyên tử đầu tiên và tiếp sau là những nguyên tử đơn giản. Các đám mây khổng lồ chứa những nguyên tố nguyên thủy này theo thời gian dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn kết tụ lại thành các ngôi sao. Nếu giả sử mô hình phổ biến hiện nay là đúng, thì tuổi của Vũ trụ có giá trị tính được từ những dữ liệu quan sát là 13,799 ± 0,021 tỷ trình của Vũ trụ Trong biểu đồ này, thời gian truyền từ trái sang phải, vì vậy tại bất kỳ thời điểm nào, Vũ trụ được biểu diễn bằng một "lát" hình đĩa của biểu trí của Trái Đất trong Vũ trụBa hình dạng có thể của vũ trụ- Khoảng cách riêng—khoảng cách được đo tại một thời điểm cụ thể, bao gồm vị trí hiện tại từ Trái Đất cho tới biên giới của Vũ trụ quan sát được là bằng 46 tỷ năm ánh sáng 14 tỷ parsec, do đó đường kính của Vũ trụ quan sát được vào khoảng 91 tỷ năm ánh sáng 28×109 pc. Bởi vì chúng ta không thể quan sát không gian vượt ngoài biên giới của Vũ trụ quan sát được, chúng ta không thể biết được kích thước của Vũ trụ là hữu hạn hay vô và sự giãn nởCác nhà thiên văn tính toán tuổi của Vũ trụ vào khoảng 13,799 ± 0,021 tỷ năm tính đến năm 2015.- Vũ trụ chứa phần lớn các thành phần năng lượng tối, vật chất tối, và vật chất thông thường. Các thành phần khác là bức xạ điện từ ước tính chiếm từ 0,005% đến gần 0,01% và Tổng lượng bức xạ điện từ sản sinh ra trong Vũ trụ đã giảm đi một nửa trong 2 tỷ năm Tỷ lệ phần trăm của mọi loại vật chất và năng lượng thay đổi trong suốt lịch sử của Vũ trụ. Ngày nay, vật chất thông thường, bao gồm nguyên tử, sao, thiên hà, môi trường không gian liên sao, và sự sống, chỉ chiếm khoảng 4,9% thành phần của Vũ trụ. Mật độ tổng hiện tại của loại vật chất thông thường là rất thấp, chỉ khoảng 4,5 × 10−31 gram trên một centimét khối, tương ứng với mật độ của một proton trong thể tích bốn mét khối. Các nhà khoa học vẫn chưa biết được bản chất của cả năng lượng tối và vật chất tối. Vật chất tối, một dạng vật chất bí ẩn mà các nhà vật lý vẫn chưa nhận ra dạng của nó, chiếm thành phần khoảng 26,8%. Năng lượng tối, có thể coi là năng lượng của chân không và là nguyên nhân gây ra sự giãn nở gia tốc của Vũ trụ trong lịch sử gần đây của nó, thành phần còn lại chiếm khoảng 68,3%.Bản đồ vẽ các siêu đám thiên hà và khoảng trống gần Trái Đất nhấtThiên hà là một hệ thống lớn các thiên thể và vật chất liên kết với nhau bằng lực hấp dẫn, bao gồm sao, tàn dư sao, môi trường liên sao chứa khí, bụi vũ trụ và vật chất tối. Các thiên hà có nhiều đặc điểm đa dạng từ các thiên hà lùn chứa vài triệu sao đến những thiên hà khổng lồ chứa hàng nghìn tỷ sao,mỗi ngôi sao đều quay quanh khối tâm của thiên hà chứa Ở giữa những thiên thể này là môi trường liên sao bao gồm khí, bụi và tia vũ trụ. Các lỗ đen siêu khối lượng nằm tại trung tâm của hầu hết các thiên Thiên hà thường được phân loại theo hình dáng bề ngoài của chúng, một dạng thường gặp là thiên hà elip, mà hình dáng tổng thể của nó giống như hình elip hay dạng khối elipsodid 3 chiều. Thiên hà xoắn ốc có dạng đĩa với những nhánh bụi xoắn ốc chứa các sao và những thiên thể khác. Những thiên hà có hình dạng bất thường được xếp thành thiên hà vô định hình và phần lớn chúng có nguồn gốc từ sự hỗn loạn trong tương tác hấp dẫn với những thiên hà lân cận. Các thiên hà nhỏ mà thiếu đi những cấu trúc đồng bộ cũng được xếp vào kiểu thiên hà vô định Ước tính có 2 nghìn tỷ thiên hà trong vũ trụ quan sát được. Đa số có đường kính từ 3 nghìn năm ánh sáng đến nghìn năm ánh sáng và hai thiên hà lân cận thường nằm cách nhau vài triệu nghìn năm ánh sáng. Không gian liên thiên hà không gian giữa các thiên hà chứa khí rất loãng với mật độ trung bình ít hơn 1 nguyên tử trên 1 m3. Phần lớn các thiên hà hoặc là phân bố ngẫu nhiên hoặc nằm trong những tập hợp không hoàn toàn tất định gọi là nhóm thiên hà và đám thiên hà, ở cấu trúc lớn hơn nữa là các siêu đám thiên hà. Trên quy mô lớn nhất, những tập hợp này thường sắp xếp lại thành các sợi và lớp thiên hà với xung quanh là khoảng không khổng đất nằm trong Thiên hà Milky Way Ngân Hà thuộc chòm sao nhân mã, thường nhìn thấy một phần nó vào ban đêm như một dải trắng vắt ngang bầu trờiHố đen- Càng nhiều vật chất trong Vũ trụ, lực hút hấp dẫn giữa chúng càng mạnh. Nếu Vũ trụ quá đậm đặc thì nó sẽ sớm co lại thành một kỳ dị hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu Vũ trụ chứa quá ít vật chất thì sự giãn nở sẽ gia tốc quá nhanh không đủ thời gian để các hành tinh và hệ hành tinh hình Lỗ đen còn gọi là hố đen hay hốc đen, là một vùng không - thời gian có một trường hấp dẫn mạnh đến nỗi không có vật chất nói chung chiếm khối lượng và không gian nhất định hoặc các bức xạ và ánh sáng nào có thể thoát ra ngoài. Thuyết tương đối rộng tiên đoán một lượng vật chất với khối lượng đủ lớn nằm trong phạm vi đủ nhỏ sẽ làm biến dạng không thời gian để trở thành lỗ đen- Hố đen sinh ra từ cái chết của một ngôi sao, khi một ngôi sao bước vào giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa sao, nó sẽ phồng lên, mất dần khối lượng. Cuối cùng, một vụ nổ khổng lồ sẽ đánh dấu sự hủy diệt của ngôi sao này gọi là siêu tân tinh. Sau vụ nổ, vật chất bị văng ra ngoài để lại lõi sao. Nếu như một ngôi sao "còn sống", phản ứng tổng hợp hạt nhân sẽ tạo ra một lực đẩy nhằm cân bằng với lực hút từ khối lượng của ngôi sao. Nhưng khi ngôi sao "chết", không còn lực nào chống lại lực hút đó nữa nên lõi sao bắt đầu sụp Nếu lõi sao khổng lồ sụp đổ thành một điểm nhỏ vô hạn thì một hố đen sẽ được sinh ra. Vì lõi sao khổng lồ có khối lượng lớn gấp nhiều lần Mặt Trời bị nén vào một điểm nhỏ như vậy khiến cho hố đen có một trường hấp dẫn khổng lồ. Di chuyển đến đâu, nó cũng có thể nuốt chửng vật chất trên đường đi, khiến nó ngày càng lớn và có sức hủy diệt mạnh bồi tụ bao quanh lỗ đen siêu khối lượng ở trung tâm của thiên hà elip khổng lồ Messier 87 trong chòm sao Xử NữMô phỏng lỗ đen uốn cong không thời gian quanh nó, xuất hiện nhiều ảnh của cùng một sao cũng như vành EinsteinSố phận sau cùng của vũ trụ vẫn còn là một câu hỏi mở, bởi vì nó phụ thuộc chủ yếu vào chỉ số độ cong k và hằng số vũ trụ Λ. Nếu mật độ Vũ trụ là đủ đậm đặc, k sẽ có thể bằng +1, có nghĩa rằng độ cong trung bình của nó đa phần là dương và Vũ trụ cuối cùng sẽ tái suy sụp trong Vụ Co Lớn, và có thể bắt đầu một vũ trụ mới từ Vụ Nẩy Lớn Big Bounce. Ngược lại, nếu Vũ trụ không đủ đậm đặc, k sẽ bằng 0 hoặc −1 và Vũ trụ sẽ giãn nở mãi mãi, lạnh dần đi và cuối cùng đạt tới Vụ đóng băng lớn và cái chết nhiệt của vũ trụ. Các số liệu hiện tại cho thấy tốc độ giãn nở của Vũ trụ không giảm dần, mà ngược lại tăng dần; nếu quá trình này kéo dài mãi, Vũ trụ cuối cùng sẽ đạt tới Vụ Xé Lớn Big Rip. Trên phương diện quan trắc, Vũ trụ dường như có dạng hình học phẳng k = 0, và mật độ trung bình của nó rất gần với giá trị tới hạn giữa khả năng tái suy sụp và giãn nở mãi mãi. NQuan Khám phá trạm vũ trụ từ lâu đã là một chủ đề yêu thích của nhiều nhà phi hành gia hay những ai tò mò về chúng. Muốn khám phá trạm vũ trụ, trước tiên chúng ta phải hiểu nó là cái gì? Nếu các phi hành gia muốn sống và làm việc trên quỹ đạo nhiều tháng, hoặc thậm chí nhiều năm, một tàu vũ trụ như tàu con thoi sẽ đáp ứng được. Họ cần một chỗ lớn hơn nhiều, gọi là trạm không gian. Cho đến nay, Trạm không gian quốc tế ISS là tàu vũ trụ lớn nhất và đắt nhất. 16 quốc gia đã cùng hợp tác để xây dựng và vận hành trạm. Trong ít nhất 5-10 năm sau nó vẫn sẽ là ngôi nhà thường trực của 6 phi hành không gian là một cấu trúc nhân tạo được thiết kế cho con người sống trong không gian bên ngoài vũ trụ. Với tính chất phức tạp của nó, trạm không gian vũ trụ gần như hội tụ đầy đủ những gì ưu việt nhất của khoa học, cùng với đó là một chi phí khổng lồ, chính vì vậy số lượng trạm vũ trụ được con người phóng vào không gian cũng rất ít, thường là những nước phát triển có trình độ khoa học – công nghệ cao mới có khả năng thực hiện. Dưới đây, sẽ cùng bạn khám phá trạm không gian đã được con người phóng thành công lên quỹ đạo seriesSalyut là một series trạm không gian trong chương trình không gian của Liên Xô, bao gồm một bốn trạm không gian nghiên cứu khoa học và hai trạm không gian do thám quân sự có phi hành đoàn trong khoảng thời gian 15 năm, từ 1971 đến đã phá vỡ nhiều kỷ lục chuyến bay vũ trụ, trong đó có một số kỷ lục về thời gian, lần đầu tiên các phi hành đoàn bàn giao một trạm không gian trên quỹ đạo và một số kỷ lục ra ngoài khoảng cùng, kinh nghiệm thu được từ các trạm Salyut tiếp tục mở đường cho các trạm không gian nhiều mô-đun như Mir và Trạm vũ trụ quốc tế, mà mỗi trạm đều sở hữu mô-đun tâm điểm có nguồn gốc từ Salyut cuối cùng Salyut 7 kết thúc hoạt động ngày 7 tháng 2 năm 1991, đây cũng là trạm có tuổi thọ cao nhất trong các thế hệ trạm không gian kiểu vũ trụ SkylabSkylab là trạm vũ trụ đầu tiên của Hoa Kỳ, được phát triển bởi cơ quan hàng không NASA. Vào ngày 14 tháng 5 năm 1973, NASA đã phóng thành công Skylab lên quỹ đạo của Trái đất và mở ra một bước ngoặt trong lĩnh vực khám phá vũ trụ và đưa con người vào không vũ trụ Skylab được phóng lên quỹ đạo Trái đất bằng tên lửa Saturn V, đây là tên lửa từng được sử dụng trong thời phát triển các tàu vũ trụ Apollo. Mặc dù quá trình phóng lên vũ trụ thành công nhưng sau đó Skylab gần như gặp vấn đề về kỹ thuật do một cơn mưa sao băng xảy ra đúng thời điểm nó gần vào quỹ đạo, làm hỏng một trong hai tấm năng lượng mặt trời chính của trạm vũ vũ trụ Skylab được thiết kế để các tấm năng lượng mặt trời hướng tối đa về phía Mặt trời nhằm cung cấp càng nhiều năng lượng càng tốt. Nhưng vì thiếu một tấm chắn, nhiệt độ trong khoang đã tăng lên tới 52 độ 25-5-1973, nhiệm vụ có người lái đầu tiên, với các phi hành gia Charles Conrad Junior, Paul J. Weitz và Joseph P. Kerwin, được phóng lên quỹ đạo, bao gồm việc lắp thêm một tấm chắn giúp giảm nhiệt độ bên trong khoang lái xuống còn 23,9 độ C. Trạm vũ trụ đi vào hoạt động đầy đủ từ ngày 4 tháng 6 và kết thúc sứ mệnh của mình vào tháng 11, năm 1979 tại một vùng biển gần Perth, vũ trụ Hòa BìnhTrạm vũ trụ Hòa Bình, hay trạm vũ trụ Mir, tiếng Nga Мир – Mir – có nghĩa là “hòa bình”, là một trạm nghiên cứu được phóng lên vũ trụ vào ngày 19 tháng 2 năm 1986, chuyên chú vào các thí nghiệm khoa học phục vụ mục đích hòa bình và sự phát triển của con người. Mir chấm dứt hoạt động ngày 23 tháng 3 năm 2001 và bị phá vỡ khi tiếp xúc khí vũ trụ Hòa Bình đã bay vòng quanh trái đất lần, là nơi tiến hành thí nghiệm khoa học. Trạm đã đón tiếp 104 người, bao gồm 42 nhà du hành vũ trụ, các nhà nghiên cứu thiên văn của Mỹ, Anh, Pháp, Đức và nhiều quốc gia khác. Ngoài ra một nhà báo Nhật và một công nhân công ty bánh kẹo của Anh, người đã chiến thắng trong một cuộc thi với phần thưởng là chuyến du lịch vào vũ thời gian hoạt động, 5 môđun đã được lắp ghép vào Trạm vũ trụ Hòa Bình, khiến nó trở thành trạm vũ trụ có những bộ phận bên ngoài lớn nhất so với các trạm trước đó, với trọng lượng tổng cộng 143 không gian Thiên Cung 1, Thiên Cung 2Thiên Cung 1 được phóng bởi một tên lửa đẩy Trường Chinh 2FT1, vào ngày 29 tháng 9 năm 2011. Đây là một phần trong chương trình trạm không gian Thiên Cung, còn được biết đến với tên gọi Dự án 921-2, nhằm mục đích xây dựng một trạm không gian lớn và có người ở bán thường xuyên trên quỹ đạo vào năm tiêu của Thiên Cung 1 là cung cấp mô-đun mục tiêu cho việc thí nghiệm ghép nối trên vũ trụ; bước đầu xây dựng lên mặt bằng thí nghiệm vũ trụ vận hành trên quỹ đạo không có người trong thời gian dài và có người trong thời gian ngắn, nhằm tích lũy kinh nghiệm cho việc nghiên cứu chế tạo trạm vũ trụ; tiến hành thí nghiệm khoa học vũ trụ, thực nghiệm y học vũ trụ và thí nghiệm công nghệ vũ 2016, Trung Quốc phóng tiếp tàu vũ trụ Thiên Cung 2 lên quỹ đạo. Tuy nhiên, họ lại mất quyền kiểm soát trạm Thiên Cung 1 và ngày 2/4/2018 đã rơi xuống Trái Đất trên khu vực Nam Thái Bình vũ trụ Quốc tế ISSTrạm vũ trụ Quốc tế ISS là một tổ hợp công trình được phóng lên vũ trụ vào năm 1998 nhằm nghiên cứu vũ trụ. Khám phá trạm vũ trụ, đây được coi là ngôi nhà chung trên vũ trụ của các nhà du hành và nghiên cứu không gian đến từ các nước trên thế giới, đứng đầu là Mỹ, Nga, Nhật Bản, Canada ước tính, trạm ISS đang trị giá160 tỷ USD – đắt giá nhất so với các phương tiện vũ trụ khác do con người đã từng chế tạo quỹ đạo của Trạm vũ trụ Quốc tế thuộc dạng quỹ đạo gần mặt đất, độ cao cách Mặt Đất chỉ trong khoảng từ 319,6 km đến 346,9 km, trạm có các tấm pin mặt trời rộng, phản chiếu tốt ánh sáng Mặt Trời nên có thể quan sát ISS từ Mặt Đất. ISS di chuyển trong không gian với vận tốc trung bình là km/giờ, ứng với 15,79 lần bay quanh Trái Đất mỗi trong những mục đích chính của ISS là cung cấp một địa điểm để giám sát thực hiện các thí nghiệm và đòi hỏi một hoặc nhiều điều kiện đặc biệt hiện nay trên trạm cho công việc này. Những lĩnh vực nghiên cứu chính bao gồm sinh học gồm nghiên cứu y sinh và công nghệ sinh học, vật lý gồm vật lý chất lỏng, khoa học vật liệu, và cơ học lượng tử, thiên văn học bao gồm vũ trụ học, và khí tượng học…Nhờ những chuyến du hành đưa người lên bảo dưỡng mà ISS còn hoạt động thêm được đến năm 2028. Vì thế, trạm ISS vẫn sẽ là cơ sở nghiên cứu khoa học quan trọng, giữ vai trò phát triển mục tiêu tiếp theo cho những chuyến bay du hành của người Mỹ lên vũ rất nhiều những bí mật thú vị khác đang chờ các bạn khám phá, những kiến thức, hình ảnh độc quyền của NASA - Bách khoa toàn thư không gian chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng với chủ đề không gian này. Cùng đón chờ ấn phẩm đặc biệt này vào tháng 8 tới đây nhé.

bách khoa toàn thư về vũ trụ