Quê Hương Xưa » Forum » Tôn Giáo Âm nhạc đi vào đời sống by Tử Quân October 10, 2022, 04:21:38 pm by Tử Quân October 10, 2022, 03:48:20 pm Phật Giáo Normal Topic Hot Topic (More than 15 replies) Very Hot Topic (More than 25 replies) Locked Topic Tóm tắt truyện Kiều - Mẫu 3. Truyện Kiều xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật chính tên là Vương Thúy Kiều - một người con gái tài sắc vẹn toàn. Thúy Kiều sinh ra trong một gia đình trung lưu, có em gái là Thúy Vân và em trai là Vương Quan. Truyện Phật Giáo Thuở xưa có một người phục dịch cho vua rất khổ, trải qua một thời gian lâu, thân thể mỏi mệt vô cùng. Vua thấy thế thương Ba ngày nữa Truyện Phật Giáo Suiwo, đệ tử của Hakuin, là một vị thầy rất giỏi. Vào một kỳ mở lớp riêng một thầy một trò (zazen) trong mùa hè, một đệ Chỗ ở của mình Truyện Phật Giáo Không chỉ là tiền, mà một chút giúp đỡ thôi cũng là điều vô cùng đáng quý. Thời nay người như vậy rất hiếm gặp, nếu như gặp được thì thí chủ nên trân quý cả 1 đời! Người cho thí chủ mượn tiền lúc thí chủ đang khốn khó, không phải bởi người ta nhiều tiền quá không biết tiêu vào đâu, mà bởi vì họ muốn giúp đỡ thí chủ một chút vào lúc khó khăn ấy. Năm Hợi, kể truyện cổ Phật giáo: Hòa thượng Heo Đăng lúc: Chủ nhật - 06/01/2019 19:32 - Người đăng bài viết: Ban Biên Tập "Tôi 'Heo Hòa Thượng' ngày xưa/ Tâm thành ghé đến tạ từ chùa đây/ Từ nay xin vĩnh biệt thầy/ Tạ ơn tri ngộ lòng này riêng mang!" Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. LỜI NÓI ĐẦU Đức Phật Thích-ca Mâu -ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá, và đã thực sự làm vơi đi rất nhiều khổ đau trong cuộc sống toàn nhân loại. Mặc dù vậy, việc tái hiện cuộc đời ngài qua một khoảng cách thời gian quá dài thật không phải là chuyện dễ dàng. Những phát hiện gần đây của khoa học khảo cổ đã xác định chắc chắn sự ra đời của ngài vào năm 624 trước Công nguyên, đặc biệt là với trụ đá có khắc chữ do vua A-dục dựng lên tại thánh tích Lam-tì-ni Lumbini. Tuy nhiên, những chứng cứ ấy cũng không thể giúp chúng ta hình dung được rõ nét về cuộc đời đức Phật, qua từng giai đoạn sinh ra, lớn lên, tu tập và thành đạo, để cuối cùng là truyền dạy giáo lý giải thoát, khai sinh ra đạo Phật được truyền thừa mãi mãi đến nay. Cách đây hơn nửa thế kỷ, học giả Đoàn Trung Còn đã giúp chúng ta làm điều đó, qua việc khảo sát các kinh điển và tài liệu liên quan, đồng thời kết hợp với trí tưởng tượng và óc quan sát, miêu tả tinh tế để hình thành tập sách Truyện Phật Thích Ca này. Cho dù còn nhiều hạn chế do thời điểm ra đời, cũng như với thể loại truyện tích được chọn không mang tính sử liệu, nhưng tập sách vẫn có giá trị giới thiệu được với đông đảo bạn đọc về cuộc đời đức Phật, bậc Đạo sư đã chỉ ra con đường thoát khổ cho nhân loại. Bằng lối văn giản dị dễ hiểu và việc loại bỏ những kiến thức quá sâu xa, phức tạp đối với giới bình dân, tập sách đã một thời được đông đảo độc giả ưa thích tìm đọc. Trong lần tái bản này, chúng tôi đã hiệu đính lại tập sách trên tinh thần giữ lại những điểm tinh túy của tác giả, nhưng có điều chỉnh bổ sung một số kiến thức cập nhật, cũng như nhuận sắc lại phần văn chương cho phù hợp hơn với độc giả hiện nay. Hy vọng là với những cố gắng đó, tập sách sẽ tiếp tục là món quà tinh thần bổ ích cho những ai bước đầu muốn tìm hiểu về đạo Phật và cuộc đời đức Phật Thích-ca. Cho dù đã hết sức thận trọng trong công việc, nhưng với những giới hạn nhất định về trình độ cũng như năng lực, e rằng cũng không tránh khỏi ít nhiều sai sót. Chúng tôi chân thành đón nhận mọi sự góp ý từ quý độc giả gần xa để tập sách có thể hoàn thiện hơn nữa trong những lần in sắp tới. Những người thực hiện HỒI THỨ NHẤT 1. VUA TỊNH-PHẠN VÀ HOÀNG HẬU MA-DA Khi xưa, ở cõi Ấn Độ , gần dãy Hy-mã-lạp sơn có một thành đẹp đẽ vô cùng tên là thành Ca-tỳ-la-ve ä. [1] Quang cảnh nơi đây rực rỡ, trong vườn hoa thơm đủ sắc, bên tường có tiếng quyên gọi đầu cành, nhà cửa lầu đài tươi xinh sắc sảo. Đâu đâu cũng đều được phong phú, yên vui. Châu gấm, ngọc ngà chiếu ra sáng lòa, hòa với vẻ đẹp của gái tốt trai lành, với dinh thự nguy nga, với vầng thái dương tươi đẹp, với bóng trăng dịu hiền trên những cành mai cụm liễu. Khắp trong thành, nhân dân đều được bình yên vui sống. Dưới thì dân cư vừa hát hò vừa cày cuốc, cùng nhau dệt vải hái dâu, trên thì có vua Tịnh-phạn[2] là người đại độ khoan dung, hiền hậu và công bình. Trước kia, ngài là bậc chinh chiến xông pha, đã từng khoác áo cầm binh mà dẹp an bờ cõi. Nay nước được hòa thạnh, ngài lo việc trị quốc một cách tốt đẹp và có được nhiều tôi trung phò giúp. Ngài là dòng Thích-ca,[3] chánh hậu là bà Ma-da,[4] người có sắc đẹp, lại đức độ. Vua và hoàng hậu đối đãi tương kính nhau và cả hai đồng lo việc phúc lợi cho nước nhà. Một hôm, hoàng hậu tắm gội sạch sẽ, mặc áo đoan trang, thoa ướp hương hoa, đeo đồ quí xảo, tìm đến chỗ vua. Ngài ngự trong một cung điện rộng lớn, có những nhạc công đang ca hát và đàn địch cho ngài nghe. Hoàng hậu đến ngồi phía bên phải nhà vua và tâu rằng Muôn tâu bệ hạ, thần thiếp muốn cầu xin bệ hạ một điều. Vua phán rằng Ái hậu hãy nói đi, hậu muốn trẫm ban cho điều chi? "Tâu Bệ hạ! Thần thiếp trông thấy người đời phải lắm nỗi khổ nên thần thiếp thật đem lòng chán ngán. Từ đây, thần thiếp muốn lo việc giúp đỡ mọi người và tu dưỡng tính tình, để mong sao sau này không còn những sự tham đắm trần tục nữa. Thần thiếp sẽ dứt bỏ lòng tự cao, không còn chạy theo những điều dục vọng, sẽ không nói những lời vô nghĩa và bao giờ cũng trọng danh dự lời nói của mình. Tâu Bệ hạ! Thần thiếp muốn cho đời mình từ đây sẽ trở nên trang nghiêm, tịnh lạc. Thần thiếp sẽ siêng trì trai giới, không còn oán hận, bỏ lòng dữ, không còn những lo âu, đố kỵ, giận hờn, tham lam. Thần thiếp sẽ vui vẻ hài lòng với cuộc sống của mình, với số phận. Thần thiếp sẽ cố gắng để trở nên trong sạch, theo đường tốt dẹp mà tiến lên, làm việc phước thiện. Bà ngưng lại giây lát. Đức vua nhìn bà, mỉm cười với vẻ trân trọng. Bà nói tiếp Từ đây thần thiếp không còn muốn đắm chìm trong những cuộc vui ở cõi đời. Thần thiếp chỉ muốn duy trì những bạn đồng tâm hợp ý, chẳng muốn phải gặp mặt kẻ xấu xa, chẳng muốn giao tiếp những kẻ đê hèn. Rồi hoàng hậu im lặng. Vua phán rằng Điều ái hậu vừa tâu đó, ta nghe rất hài lòng. Hoàng hậu đứng dậy và tâu rằng Thần thiếp cảm tạ lòng thương của hoàng thượng. Mong rằng hoàng thượng cũng sẽ mở lòng mà xá tội cho những kẻ tội phạm đã biết ăn năn hối cải, lại bố thí cho những kẻ đói rách, hoàng thượng sẽ rộng ban ân đức cho dân được nhờ. Đức vua gật đầu chấp thuận. Hoàng hậu bèn lui về cung. 2. HOÀNG HẬU NẰM CHIÊM BAO Một hôm, nhằm vào đầu mùa xuân, hoàng hậu nằm mộng chợt thấy một điềm chiêm bao lạ. Bà thấy một con voi trắng lớn từ trên trời bay xuống, đầu có ba cặp ngà. Voi trắng bay thẳng vào lòng hoàng hậu. Liền đó, cả ngàn vị thần tiên hiện xuống vây quanh và ca tụng bà. Lúc bấy giờ bà nghe trong người bỗng nhiên thật thanh thoát, nhẹ nhàng, chẳng còn biết sầu lo oán hận gì cả. Khi bà thức dậy thì những giọng hát, những tiếng nói thanh thanh dường như hãy còn văng vẳng bên tai. Lòng bà tự dưng vui mừng khôn xiết, liền hiểu rằng điềm mộng lành này hẳn báo trước cho một điều vui sắp tới. Bà vội bước ra khỏi đền, có mấy cô mỹ nữ xinh đẹp theo hầu. Bà đi ngay ra vườn hoa, cho người báo cùng đức vua. Đức vua được tin liền ngự đến vườn hoa ngay khi ấy. Vừa đến nơi, nhà vua bỗng có một cảm giác rất lạ lùng. Vua thấy trong người ngây ngất, chân muốn quỳ, tay run rẩy, mắt như lòa đi. Ngài nghĩ rằng Ta đã từng vào sanh ra tử, không bao giờ run sợ như lần này, cho đến mức bước đi cũng không được, nói không ra lời. Điều này là do đâu, ta thật không hiểu nổi! Vừa lúc ấy, trên thinh không có tiếng nói vang lên rằng "Ta mừng cho vua Tịnh-phạn! Ngài sắp có một người con là bậc cứu độ chúng sanh trong cõi trầm luân. Vị cứu tinh ấy sắp sanh vào gia đình của ngài, là một gia đình đạo đức cao trổi nhất trên đời, và làm con của vị hoàng hậu hiền từ đức độ nhất trên đời." Vua nghe âm thanh ấy, biết là tiếng của thiên thần, liền bái tạ. Rồi vua đi vào vườn hoa, trong lòng hớn hở vô cùng. Vua gặp hoàng hậu liền hỏi rằng Hậu cho mời ta có việc gì chăng? Hoàng hậu bèn kể lại điềm chiêm bao tối qua và tâu vua xin cho mời các vị bà-la-môn đến đoán mộng. Vua nghe xong liền cho người triệu đến hơn 60 vị bà-la-môn biết giải mộng. Cả thảy nghe xong đều tâu rằng Muôn tâu bệ hạ! Thật là một điềm mộng rất lành. Theo điềm ấy, hoàng hậu chắc sẽ sanh thái tử. Ngài là bậc đáng tôn kính hơn hết trong trời đất này. Và nếu như ngày sau, thái tử thấy cuộc đời lắm nỗi tang thương mà chạnh lòng muốn cứu vớt hết thảy sinh linh, bèn từ bỏ ngôi báu, đền đài, dứt niềm luyến ái, đem thân làm một tu sĩ đi tìm đạo, thì ngài sẽ trở thành bậc mà muôn đời về sau thờ kính và sùng bái. Vua và hoàng hậu nghe qua rất mừng, liền phát tâm bố thí cho nhân dân thật nhiều lương thực, vải vóc và tiền của. Quả thật, sau điềm mộng đó, hoàng hậu thấy trong người đổi khác và biết mình đã thọ thai. Từ khi ấy, phong thổ trong thành càng thêm phần hòa dịu, những luồng gió mát thổi qua khiến cho người người đều thơ thới. Trên trời có hoa quý rơi xuống và nghe có tiếng ca hát tán tụng công đức của gia đình vua. 3. THÁI TỬ RA ĐỜI Thời gian thấm thoát trôi qua, ngày hoàng hậu lâm bồn sắp đến. Một hôm hoàng hậu dạo vườn, thấy những hạc múa, công chầu. Bà ngồi trên kiệu mà trông ra những hoa tươi, lá đẹp, trong lòng hớn hởû. Thấy vui, bà lần bước xuống kiệu, dạo quanh trong vườn. Bỗng thấy xa xa có cây hoa quý đang rực rỡ đơm bông. Bà liền đến gần, tay vịn một cành hoa toan hái. Nhưng vừa lúc ấy bà nghe trong người như ngây ngất, liền đứng lặng một hồi. Thị nữ bao quanh đỡ lấy bà, thì đã thấy chào đời một bé trai xinh đẹp. Ngay khi đó, bà tỉnh lại, mỉm cười. Lúc ấy, không khí nơi nơi đều hoan lạc lạ thường, quả địa cầu chấn động sáu lần. Trên trời, các vị tiên nữ múa hát dịu dàng. Khắp thế giới, các thứ cây đều đơm hoa thơm, kết trái lành. Ánh sáng trên cao chói xuống rực rỡ. Tin lành được truyền ngay sang cung vua. Đức vua vui mừng khôn xiết, liền vào ngay vườn hoa. Cùng đi có nhiều thân quyến giòng họ Thích-ca và nhiều thầy bà-la-môn uyên bác. Vua phán rằng "Trẫm đặt tên thái tử là Sĩ-đạt-ta."[5] Khi ấy, các vị bà-la-môn đồng thanh ca ngợi rằng Thái tử ra đời, từ đây đường đời không còn chông gai. Ngài sẽ làm cho chúng sanh được thanh thản, an lạc. Thái tử ra đời, mặt trời và mặt trăng như bị lu mờ vì hào quang của ngài chiếu sáng vô cùng. Ngài sẽ làm cho cảnh trần thế trở nên quang minh. Ngài sẽ khai mở tri thức, trí khôn cho hết thảy mọi người. Ngài sẽ cứu vớt những kẻ hoạn nạn, giúp đỡ người nghèo khốn. Lửa dữ không còn đốt người, sông mê rồi sẽ cạn nguồn, quả đất nhẹ nhàng mà chấn động. Ngài sẽ là người tìm ra tường tận chân lý trong vũ trụ, khai mở con đường giải thoát cho muôn loài. Bấy giờ là ngày trăng tròn của tháng 4 âm lịch, vào năm 624 trước Công nguyên. 4. ÔNG TIÊN ĐOÁN VẬN MẠNG Bấy giờ có một vị tiên nhân đã cao tuổi, tên là A-tư-đà . [6] Nhờ tu luyện lâu năm, ông đã đắc năm phép thần thông, có khả năng đoán biết vận mệnh trong tương lai. Từ trên núi cao, ông đã biết việc thái tử ra đời và sẽ là người cứu độ chúng sanh sau này. Ông liền xuống núi mà đi đến thành Ca-tỳ-la-vệ, xin vào ra mắt vua Tịnh-phạn. Đức vua từ lâu đã nghe danh và rất kính trọng ông, vì biết ông là người đạo cao đức trọng, lại giỏi đoán vận mệnh. Vua liền tiếp rước ông theo đúng nghi lễ rất trang trọng và nói rằng Trẫm vừa sanh thái tử, nay được đại đức đến viếng, xin vì trẫm mà đoán cho vận mệnh của thái tử về sau thế nào. Tiên A-tư-đà tâu lên rằng "Bệ hạ là một nhà vua khoan dung, đức độ, thương kẻ nghèo khó, trọng người hiền tài, nên mới được trời ban phúc mà sanh ra thái tử. Bần đạo đã nghe chư thiên mách bảo rằng Bệ hạ sanh thái tử, sau này sẽ tìm ra chánh đạo mà dẫn dắt người đời. Chính vì vậy mà bần đạo mới lặn lội đến đây mong được yết kiến thái tử. Nhà vua nghe qua hết sức vui mừng, liền truyền mang thái tử ra cho ông A-tư-đà xem mặt. Vị tiên nhân ngắm nhìn thái tử, thấy đủ vẻ hùng lực. Xem một hồi lâu rồi trao lại cho vua mà thở dài, mắt nhuốm lệ. Đức vua lấy làm sửng sốt, liền muốn biết nguyên do mà hỏi rằng Đại đức vừa nói rằng thái tử không phải người tầm thường, ngài cũng nói trẫm nhờ phúc đức mà sanh được thái tử. Ngài còn đoán sau này công nghiệp thái tử sẽ được vinh quang. Vậy vì sao ngài nhìn thái tử mà có vẻ ưu sầu, giọt lệ chứa chan, thực trẫm chưa hiểu được. Tiên nhân A-tư-đà tâu rằng "Muôn tâu bệ hạ! Không có điều gì lo ngại cho thái tử cả. Người sẽ thành tựu muôn ngàn công nghiệp vinh quang. Điều tôi ưu sầu là vì buồn cho thân phận bất hạnh của tôi. Nay được thấy thái tử ra đời, biết rằng ngài sẽ © Copyright 2008 Phật học đời sống - tin tức Phật giáo - tin nhanh Tòa soạn 207A - Võ Thị Sáu - Phường 7 - Quận 3 - Tp. HCM - ĐT 0777719559 Bài vở đóng góp, xin gởi về Ban biên tập qua địa chỉ email phdoisong . Ghi rõ nguồn khi bạn phát hành lại thông tin từ website này. Bản quyền thuộc Phật Học Đời Sống. Designed by PHDS Tập sách "Chuyện Phật Đời Xưa" đã được tác giả Đoàn Trung Cònbiên soạn cách đây gần nửa thế kỷ, từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau trongPhật dung của sách được chọn lọc một cách khá nhất quán xoay quanh trục chủ đề chính là các vấn đề luân lý, đạo đức. Bên cạnh đó, những vấn đề như đức tin, luật nhân quả và các phần giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới cũng được đưa thể xem đây là một sự minh họa phong phú và lý thú cho những bài giảng về giáo lý nhà Phật. "Thuở xưa, tại thành Ba la nại có một vị vua rất nhân từ, thường noi theo đạo từ bi để trị nước và giáo hóa daanc húng. Ngài rất công minh, không bao giờ có sự thiên vị với bất cứ ai, ngài cai trị hơn 60 nước chư hầu, gồm hơn tám mươi quận, có trong tay hàng trăm thớt voi,. Trong nội cung của ngài có đến hai chục ngàn cung phi mỹ nữ. Nhưng thật không may là ngài vẫn chưa có con nối dõi. Ngài hằng cầu nguyện trời Phật thánh thần, xin cho có được một mụn con để nối dòng. Mười hai năm sau hoàng hậu thọ thai, rồi bà thứ phi cùng lúc thọ thai. Vua lấy làm vui mừng, tự mình chăm sóc cho hai bà rất thận trọng, tự tay lo từng miếng ăn, thức uống cho đến lúc nằm khi nghỉ, vua cũng đích thân lo giường nệm cho..." $ $ Publisher Description Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình. Có thể xem đây là một sự minh họa phong phú và lý thú cho những bài giảng về giáo lý nhà Phật. Và có lẽ đây cũng chính là lý do giúp cho tập sách được độc giả nồng nhiệt đón nhận ngay từ khi vừa mới ra đời. GENRE Religion & Spirituality RELEASED 2016 July 7 LANGUAGE EN English LENGTH 209 Pages PUBLISHER Dong A Sang SELLER Draft2Digital, LLC SIZE KB More Books by Đông A Sáng CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA By Đoàn Trung Còn biên soạn Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Smashwords Edition. mailtohtt//blog,%  MỤC LỤC Chương 1 LỜI NÓI ĐẦU Chương 2 CHUYỆN PHẬT HỮU VÀ ÁC HỮU 2. HAI VUA HIỀN ĐỨC THÂN CHO CỌP CỨU NGƯỜI KỸ NỮ DANH Y CHẾT CON SỐNG THỢ TIỆN VÀ NGƯỜI THỢ VẼ PHẢI SUY XÉT 10. LỄ VU LAN DỐT HAY CÃI GIA TÀI TRẢ ƠN, NHƠN TRẢ OÁN DƯỜNG MỘT BỤM CÁT MẸ MẤT CON HẠ TIỆN ĐẮC ĐẠO CHÓ GIỮ CỦA TỬ TRONG BỤNG CÁ HIẾU QUÊN THÙ CHẾT CỦA ĐÀN BÀ TIẾT VỚI CHỒNG NGỮ VỚI CHỒNG CHUYỆN ĐỜI SAU NGHĨA CUỘC ĐỜI NGƯỜI HAI VỢ KIM CƯƠNG THỢ NHUỘM PHỤNG CHỒN MUỐN CƯỚI CÔNG CHÚA ĐUÔI LÀM ĐẦU TỬ VÀ CON CHIM NHỎ TỬ VÀ CHÓ SÓI CHÓ SÓI VÀ NHÀ SƯ VÀ GÀ VÀ RÙA NGỰA XAY LÚA BÁO HIỆN TIỀN RA TRONG LỬA CỔ PHẬT THÍCH-CA THẦN KHOÁNG DÃ LỰC CỦA LÒNG TỪ BI HỘ CHÁNH PHÁP LUÂN THÁNH VƯƠNG  Chương 1 LỜI NÓI ĐẦU Tập sách này được học giả Đoàn Trung Còn biên soạn cách đây non nửa thế kỷ, từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong Phật giáo, mà trong đó chủ yếu là các kinh Bản sanh chuyện tiền thân đức Phật và Đại Bát Niết-bàn. Mục tiêu của soạn giả có thể dễ dàng thấy được qua hầu hết nội dung các câu chuyện, vì đã được chọn lọc một cách khá nhất quán xoay quanh trục chủ đề chính là các vấn đề luân lý, đạo đức. Bên cạnh đó, những vấn đề như đức tin, luật nhân quả và các phần giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới cũng được đưa vào. Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình. Có thể xem đây là một sự minh họa phong phú và lý thú cho những bài giảng về giáo lý nhà Phật. Và có lẽ đây cũng chính là lý do giúp cho tập sách được độc giả nồng nhiệt đón nhận ngay từ khi vừa mới ra đời. Thế nhưng, nửa thế kỷ là một quãng thời gian khá dài, và sự tồn tại của tác phẩm không có nghĩa là nó hoàn toàn không có ít nhiều những điểm không phù hợp với độc giả hiện nay. Thấy được điều đó, trước khi tái bản lần này chúng tôi đã tiến hành việc hiệu đính lại toàn bộ nội dung cũng như nhuận sắc phần văn chương trong tác phẩm. Trong khi làm công việc này, chúng tôi căn cứ vào những tư liệu gốc mà soạn giả đã sử dụng trước đây, phần lớn là những bộ kinh mà soạn giả đã trích ra các mẩu chuyện trong sách này. Mặt khác, chúng tôi vẫn cố gắng giữ lại tính chất giản dị, trong sáng và dễ hiểu của tập sách, không đi sâu vào những vấn đề mang tính triết học hay những luận lý phức tạp, vì có thể là không phù hợp lắm với đông đảo độc giả thuộc tầng lớp bình dân. Trong một số câu chuyện, chúng tôi không sử dụng lối trích dẫn nguyên vẹn trong các kinh như soạn giả đã làm trước đây, mà căn cứ vào nội dung câu chuyện đã được trình bày trong kinh để viết lại theo lối văn kể chuyện. Điều này là nhằm tạo sự nhất quán cho văn phong của toàn bộ sách, và cũng nhờ đó làm cho những câu chuyện trở nên dễ hiểu và hấp dẫn hơn. Với tâm nguyện tiếp bước người xưa, góp phần tạo thêm những cuốn sách bổ ích và lành mạnh, có thể giúp củng cố, vun bồi những giá trị đạo đức và tinh thần trong xã hội, chúng tôi không ngại tài hèn sức mọn, cũng cố gắng hết sức mình để lần tái bản này nội dung cũng như hình thức của tập sách đều được hoàn thiện hơn. NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN  Chương 2 CHUYỆN PHẬT HỮU VÀ ÁC HỮU Thuở xưa, tại thành Ba-la-nại Bénarès có một vị vua rất nhân từ, thường noi theo đạo từ bi để trị nước và giáo hóa dân chúng. Ngài rất công minh, không bao giờ có sự thiên vị với bất cứ ai. Ngài cai trị hơn 60 nước chư hầu gồm hơn tám mươi quận, có trong tay hàng trăm thớt voi. Trong nội cung của ngài có đến hai chục ngàn cung phi mỹ nữ. Nhưng thật không may là ngài vẫn chưa có con nối dõi. Ngài hằng cầu nguyện trời Phật thánh thần, xin cho có được một mụn con để nối dòng. Mười hai năm sau, hoàng hậu thọ thai, rồi bà thứ phi cũng cùng lúc thọ thai. Vua lấy làm vui mừng, tự mình chăm sóc cho hai bà rất thận trọng, tự tay lo từng miếng ăn, thức uống, cho đến lúc nằm khi nghỉ, vua cũng đích thân lo giường nệm cho. Đến kỳ nở nhụy khai hoa, hoàng hậu sinh ra một bé trai kháu khỉnh, xinh đẹp, toàn hảo đến mức không chê vào đâu được. Rồi bà thứ phi liền đó cũng sinh được một hoàng nam. Vua hết sức vui mừng, liền triệu tập triều thần và cung thỉnh nhiều vị thầy danh tiếng ở khắp nơi về dựđoán số mệnh cho hai con. Khi nhà vua bế vị thái tử do hoàng hậu sinh ra trao cho các thầy Bà-la-môn để đặt tên, các thầy hỏi rằng Lúc thọ thai hoàng tử và khi sinh ra có điềm lạ gì chăng? Những người hầu đáp rằng Lúc trước hoàng hậu tánh tình hay tham ác, ganh ghét và kiêu ngạo. Từ khi thọ thai hoàng tử, tánh tình bà bỗng hoá ra khoan dung rộng rãi, thuần lương hiền hậu, nét mặt luôn tươi vui, suốt ngày cười nói, lại thường quan tâm thăm hỏi người khác, nói năng ngọt ngào và lấy lòng từ tâm mà đối xử với tất cả mọi người. Các thầy Bà-la-môn liền nói Đó là do thiện nghiệp của thái tử mà hoàng hậu được trở nên hiền lành. Họ liền đặt tên cho thái tử là Thiện Hữu 善 友 , nghĩa là người bạn hiền. Kế đến, khi xem tướng cho hoàng tử con bà thứ phi, các thầy cũng hỏi rằng Lúc mang thai và khi sinh hoàng tử ra, có điềm gì lạ chăng? Những người hầu đáp rằng Lúc trước, hoàng hậu tánh tình khoan dung rộng rãi, không tham ác, không ganh ghét và không hay kiêu ngạo. Kể từ khi thọ thai hoàng tử, tánh tình bà bỗng hoá ra không thuần lương hiền hậu chút nào. Bà nói ra những lời cộc cằn dữtợn và hay ganh ghét oán giận người khác. Các thầy Bà-la-môn liền nói Đó là do ác nghiệp của đứa trẻ này mà khiến cho bà mẹ trở nên hung ác. Họ liền đặt tên là Ác Hữu 惡 友 , nghĩa là người bạn dữ. Hai trẻ được nuôi nấng và chăm sóc như nhau cho đến năm lên mười bốn tuổi. Thiện Hữu thông minh hiền lành, thường hay bố thí cho người. Vua và hoàng hậu rất thương yêu, trân quý như tai, mắt của mình. Còn Ác Hữu thì tánh tình hung tợn. Vua và hoàng hậu không mấy hài lòng nên tình thương có phần nhợt nhạt. Ác Hữu ganh ghét với anh mình, thuờng tìm cách làm hại, quấy phá luôn. Tuy là em mà chẳng chịu nghe lời anh, lại thường đối nghịch, cãi lại. Một hôm, thái tử Thiện Hữu cùng tùy tùng ra chơi bên ngoài thành. Vừa lúc đi ngang một cánh đồng, ngài nhìn quanh thấy những nông dân đang cày ruộng, khi đất bị xới tung lên thì các loài trùng phơi mình ra. Liền đó, chim quạ bay tới mổ lấy trùng và ăn mất. Thái tử thấy cảnh ấy, lấy làm cảm động và đau lòng. Từ nhỏ, lớn lên trong cung vàng điện ngọc, ngài đã có bao giờ nhìn thấy chuyện ấy đâu! Thái tử liền hỏi người hầu Vì sao người ta lại cày đất để cho loài vật ăn hại lẫn nhau như vậy? Người hầu đáp Tâu điện hạ, đất nước của ngài mà vững được, ấy là nhờ dân. Dân mà sống được, là nhờcó miếng ăn. Muốn có miếng ăn, phải nhờ việc cày bừa trồng ngũ cốc. Phải làm thế mới có thể giữ được cuộc sống. Thái tử suy nghĩ chuyện ấy rồi than rằng Đau đớn thay! Đau đớn thay! Lại đi tiếp một quãng xa, ngài gặp nhiều người đàn ông và đàn bà đang cùng nhau kéo chỉ quay tơ. Họ đi qua đi lại, tay chân cử động nặng nề coi bộ rất mệt mỏi. Thiện Hữu hỏi rằng Những người ấy làm việc gì vậy? Người hầu trả lời Tâu điện hạ, họ đang kéo chỉ và quay tơ để làm ra những áo quần dùng mặc ấm và che thân. Thái tử than rằng Việc làm cực khổ, mệt nhọc thay! Ngài lại đi xa hơn nữa, thấy một chỗ lò mổ thịt, người ta đang giết bò, lạc đà, ngựa, heo và cừu. Ngài hỏi Những người ấy là ai? Người hầu đáp Những người ấy giết thịt thú vật, đem bán đểlấy tiền sinh sống. Thái tử nghe qua rùng mình và nói Thật kỳ lạ thay! Thật đau đớn thay! Những người ấy thật là hung dữ, ỷ sức mạnh để làm hại kẻ yếu. Nếu người ta giết những sanh mạng này để nuôi dưỡng sinh mạng kia thì tội ác ấy sẽ chất chồng muôn kiếp. Rồi ngài đi xa hơn nữa, gặp những người đang thả lưới bắt chim, một số khác đang câu cá. Họ dùng sự khôn ngoan của mình để giết hại những sanh mạng không có thù oán gì với họ. Thái tử lại hỏi Những người ấy là ai và họ làm gì đó? Người hầu đáp Tâu điện hạ, họ đang dùng lưới bắt chim và dùng lưỡi câu để bắt cá. Họ làm nghềấy để nuôi sống bản thân và gia đình. Thái tử nghe qua như vậy thì giọt nước mắt từ bi chảy tràn trên mặt. Ngài nghĩ rằng Trong trần thế biết bao nhiêu người làm đủ các nghiệp ác, tội lỗi không sao kể xiết! Ngài lấy làm khổ tâm, không còn vui thú việc rong chơi nữa, liền bảo quay xe trở về cung. Thấy ngài trở về, vua cha hỏi Này con, tại sao con đi chơi về mà lại ưu sầu như thế? Thiện Hữu đem những việc đã gặp mà thuật lại với cha. Vua nghe xong, phán rằng Những điều con gặp đó là tất nhiên phải có trong cuộc sống này, sao con lại lấy thế làm buồn? Thái tử nói Tâu phụ vương, con muốn xin một điều, không biết phụ vương có thuận cho chăng? Vua đáp Ta yêu con hơn hết thảy mọi thứ trên thế gian này, lẽnào ta lại tiếc với con điều gì? Thái tử liền nói Con muốn được phụ vương ban cho những của báu trong kho, với những đồ ăn thức uống để bố thí cho bá tánh. Vua nói Được, ta thuận cho con điều ấy. Thái tử Thiện Hữu liền sai quân mở kho báu, lấy vàng bạc và của quí chở trên năm trăm thớt voi mang ra bên ngoài bốn cửa thành, truyền rao khắp nước rằng, ai muốn có áo quần và vật thực thì cứ tự do đến lấy về dùng. Khắp nơi trong nước, người ta nhanh chóng truyền cho nhau hay về sự nhân từ của thái tử. Bá tánh kéo về đông nghẹt cả bốn cửa thành. Và chẳng bao lâu đã phân phát hết một phần ba của cải trong kho. Các quan coi kho vào tâu với vua rằng Tâu thánh thượng, điện hạ đã ban phát hết một phần ba của cải trong kho rồi. Xin thánh thượng xét lại. Vua đáp Đó là việc làm của thái tử, trẫm làm thế nào mà ngăn cấm được? Các quan coi kho nghĩ rằng Nước vững mạnh là nhờ có tiền của. Nếu trong kho hết sạch tiền của, thì đất nước làm sao tồn tại? Rồi chẳng bao lâu, họ lại tâu lên vua rằng Tâu bệ hạ! Của cải trong kho giờ thái tử đã cho đi gần hết, chỉ còn có một phần ba mà thôi. Xin bệ hạ xét lại. Vua cũng đáp Đó là việc làm của thái tử, trẫm làm thế nào mà ngăn cấm được? Tuy vậy, trẫm cho phép các ngươi được tìm cách khéo léo để giữ lại, nhưng không ai được nói thẳng với thái tử. Các quan giữ kho liền nghĩ cách. Khi thái tử Thiện Hữu muốn mở kho, họ bàn nhau lánh mặt đi nơi khác. Thái tử đi tìm nhưng không thể gặp được họ, vì họ đã cố ý lánh mặt. Ngài hiểu ra, liền nghĩ rằng Những kẻ thấp hèn ấy, làm sao lại dám trái ý ta? Có lẽcha ta đã có lệnh cho họ rồi. Phận ta là con phải giữ chữ hiếu, nếu cha ta không muốn thì ta cũng không nên lấy hết tiền của mà bố thí cho dân nghèo. Nay nếu ta không tự làm ra được tiền của đểgiúp cho dân nghèo có cơm ăn áo mặc, thì đâu xứng đáng là hoàng tử con một vị vua danh tiếng nữa. Thái tử liền đem việc ấy bàn với các vị quan văn võ trong triều. Có vị đại thần nhất phẩm tâu rằng Trong đời này, muốn được nhiều tiền của, tốt hơn hết là nên lo việc ruộng nương. Gieo một hạt giống mà thu được cả chục ngàn hạt lúa. Lợi biết bao! Thái tử nhớ lại cảnh cày ruộng đã xem hôm trước, liền nói Cách này không được. Một quan đại thần khác tâu Trong đời này, muốn được nhiều tiền của, tốt hơn hết là nên chăn nuôi súc vật. Từ một bầy có thể sinh sản ra rất nhanh, thành hàng chục, hàng trăm bầy, lợi vô cùng. Thái tử nhớ đến cảnh giết thịt thú vật, liền nói Vì muốn lợi mà làm hại sinh linh, cách này cũng không được. Một ông quan khác tâu Trong đời này, muốn được nhiều tiền của, tốt hơn hết là đi tìm ngọc. May mà tìm được hạt ngọc nhưý Ma-ni bảo châu thì đủ cứu vớt chúng sanh. Thái tử phán Chỉ có phương pháp ấy là hợp ý ta. Ngài liền vào cung tâu với vua cha rằng "Tâu phụ vương, nay con muốn

truyện phật đời xưa